MÙA QUÊ MỘT THỜI SẮN BẮP…
Tạp bút Nguyễn Hải Triều
Một bận theo người bạn thân về thăm Hội An.
Chiều tàn trên bến sông Hoài. Phố xá nghiêng nghiêng mái nhà cổ hoang liêu những
nếp gấp hoài niệm. Bất chợt vang lên tiếng rao: “Ai bắp nướng đây!”, “Ai sắn
luộc không?...”. Biết. Trong không gian của phố cổ được tái hiện lại thuở xa
xưa, sắn bắp người ta rao bán, dành cho thực khách làm món ăn vặt vui miệng lúc
nhàn nhã dạo phố, nhưng nghe đâu rất đắt, mười ngàn chỉ được vài khúc sắn cỏn
con. Chẳng bõ cho thời xa xưa trên vùng đất nắng bụi mưa bùn quê tôi, sắn bắp
là thứ lương thực không thể thiếu làm nên dáng vóc hình hài, làm nên sự sống
cho mỗi cuộc đời của thời gian nan khổ cực mà mỗi khi nhắc đến thì ai cũng
không thể nào quên được.
TỪ BAO NƯƠNG SẮN QUANH ĐỒI…
Những
nhà văn, nhà thơ, những người có chút tâm hồn lãng mạn thường gọi quê tôi bằng
cái tên rất hình tượng: “Thung lũng xanh”. Quả đúng như vậy, nơi có hai con
sông bao bọc làng mạc, nơi có xung quanh là những dãy đồi núi trùng điệp che
chắn, nhìn xa như một lòng chảo. Trước giải phóng, người dân quê tôi ngoài việc
canh tác lúa trên cánh đồng làng làm nguồn lương thực chính, nhưng những bữa
cơm vẫn không được tròn trịa vì thất bát mùa màng. Để có đủ lương thực sống, họ
còn phải cày xới trên những rẻo đất khô để trồng các loại hoa màu phụ như bắp,
đậu, khoai, mè…và không thể thiếu cây sắn quanh biền bãi quê tôi.
Sắn là loại cây dễ trồng, dễ chăm bón và
thường cho năng suất cao. Ngày ấy sắn được trồng trên các vạt đất nhỏ ngoài cồn
bãi, dọc biền, cả trong vườn nhà, cả trước sân. Loại sắn canh nông củ to, vỏ
lụa màu hồng, nhiều tinh bột; sắn mì tuy củ nhỏ, vỏ lụa xanh, nhưng lại dẻo
thơm ăn một củ nhớ đời. Đồng lúa mùa màng thua hạt thì còn có khoai sắn phụ vào
cho bữa ăn từng nhà được no đủ, đầy đặn.
Từ sắn củ, người dân quê tôi biết chế biến
thành nhiều món độc đáo trong các bữa ăn. Nào sắn nấu (luộc), canh sắn, sắn
quết với đậu phộng dẻo thơm, sắn làm bánh tráng để cuốn với rau muống cá nục;
sắn xắt phơi khô “ghế” vào cơm (thời đói nghèo đôi khi lát sắn khô phải cỏng
năm mười hạt cơm). Rồi bột sắn làm bánh “bẹp bẹp” hấp chín với nhưn đậu;…Sắn! những
tháng ngày quê tôi nhà nhà không thể thiếu trong mỗi bữa ăn.
Ngày mới vừa giải phóng (năm 1974), hàng
mấy chục ngàn dân phải tản cư lên núi Đông Giang, Tây Giang để tránh bom đạn.
Ẩn náu trên vùng núi non hiểm trở gần một năm trời. Chống chọi với bệnh tật,
đói cơm, lạt muối. Mặc dù được Chính quyền Cách mạng cung cấp lương thực hằng
ngày với tiêu chuẩn một lon gạo cho mỗi người lớn, trẻ nít thì nửa lon. Nhưng rồi
nguồn lương thực ấy cũng cạn kiệt dần. Mấy chục ngàn người quê tôi lại phải bám
víu vào sắn để tồn tại. Được hàng trăm hec-ta sắn của người dân bản địa hỗ trợ,
bà con sống nhờ sắn mỗi ngày để lấy sức mà tăng gia sản xuất tự cung tự cấp đợi
ngày giải phóng toàn miền Nam
để được về làng cũ. Cả quê tôi ngày ấy nếu không có những củ sắn nghĩa tình kia
thì liệu có thể chống chọi được chăng mà tồn tại trong cái khốc liệt, nghiệt
ngã của chiến tranh? Rồi khi về lại làng cũ, để lo cho cái ăn mỗi ngày, người
dân quê tôi lại phải vào các triền đồi giáp ranh phát rẫy trồng sắn. Thuở ấy
nhà nào cũng có rẫy sắn, nhiều thì đến vài ba héc-ta, nhà ít cũng lưng vài sào.
Có sắn là không thể bị chết đói.
Nhưng đau đáu một nỗi nhớ trong tôi là
những củ sắn lùi un lửa rơm đồng chiều thời chăn trâu trên biền bãi quê nhà
những ngày đông giá lạnh đến cắt da thịt. Miệng thổi phù phù, tay phủi phủi tàn
tro rơm rạ bám quanh củ sắn. Mặt đứa nào cũng đầy vết lọ nhìn đến tức cười. Mùi
sắn nướng ngày ấy cứ lẩn khuất trong từng ngóc ngách hoài niệm tuổi thơ để rồi
dù có đi đâu, xa mấy cũng nhắc nhở những bước chân viễn du luôn biết lối để
quay về cố xứ.
…ĐẾN NHỮNG MÙA BẮP SAI TRÁI
Thời đại bây giờ người ta nuôi trẻ bằng
nhiều loại sữa cao cấp, bằng nhiều
nguồn thực phẩm quý hiếm; đã vậy mà các bậc cha mẹ trẻ lại thường cứ lo lắng về
chiều cao, bệnh tật, trí thông minh của con mình! Tôi hay nói với con cái, rằng
thịt da xương óc của những người thế hệ của ba sống trên quê xứ này được nuôi
dưỡng bằng sắn khoai bắp đậu đó! Ngoài sắn, cây bắp trên quê tôi cũng gần gủi,
thân thiết với đời sống con người. Ngày xưa, dọc quanh những bãi làng như Đồng
An, Bàu Cá Gáy,…quanh năm xanh xanh những mùa bắp bạt ngàn. Dân quê tôi chuộng
giống bắp tẻ, tuy nhỏ trái nhưng hạt đều và ăn có vị ngọt, thơm, đậm đà. Tôi
nhớ, bọn trẻ chúng tôi khi đến mùa, chiều chiều giong trâu trên những bãi cỏ
đầu làng, mỗi đứa buộc một dây lạt vào lưng rồi chui vào giữa biền bắp; khi trở
ra thì đứa nào cũng cài trên thắt lưng chừng mươi trái bắp non. Tất cả tập hợp
lại, nhóm lửa giữa đồng nướng bắp. Bắp nướng nguyên vỏ trên lửa ngọn, đợi khi
chúng cháy sém lớp bao ngoài thì lấy que hất ra, bóc hết bao để còn trái bắp
non chín như nấu thơm phưng phức, ngọt hết chỗ nói. Đứa nào cũng thổi phù phù
mà cạp tới ê cả răng, đầy cả bụng mà miệng vẫn cứ muốn ăn tiếp.
Đến mùa thu hoạch, bắp bẻ về phơi đầy sân,
vàng quanh xóm, quanh làng. Người ta chọn những trái bắp non đem “sát” (lấy dao
gọt những hột bắp vừa kính váng đỏ), sau đó đem xay, ép nước cho vào các chén
sành chưng cách thủy. Món nước bắp chưng độc đáo mùi quê kiểng, nhớ đời. Bắp
non còn đem nướng lửa than phết mắm cái; bắp nấu để nguyên vỏ luộc chín ăn dần suốt
ngày ghiền hơn cả cơm. Đôi khi nấu chín rồi đem phơi, khi ăn nướng lại gọi là
món bắp “trụng”. Những trái bắp già phơi
khô, đập lấy hạt bỏ vào trong các ghè dự trữ.. Bắp hột đem xay trộn với gạo làm
lương thực ăn quanh năm. Bột bắp đem nấu quấy đều, bỏ chút vôi sau đó đổ ra mâm
thành món bột bắp. Thời đói kém, món bột bắp đôi khi là chủ đạo trong nhà, ai
từng sống trên quê tôi ngày ấy thảy đều ghi nhớ.
NHỮNG VỒNG KHOAI LANG XANH KÝ ỨC…
Quê tôi có câu thành ngữ: “Nhất khoai đầu
vồng, nhì có chồng Khánh Vân”. Khánh Vân là một làng nghề ở xã Đại Cường. Trai
Khánh Vân làm nghề thợ hồ, nghề nghiệp ổn định, làm ra nhiều của cải. Con gái
lấy chồng về Khánh Vân thì được sống sung sướng, giàu có nên ai cũng ao ước.
Người ta có câu ví như vậy cũng nói rằng khoai đầu vồng thường lớn củ và nhiều.
Quê tôi ngày ấy ngoài sắn bắp, khoai lang cũng được trồng nhiều và được “trọng
dụng” ngang với những loại lương thực khác. Khoai lang là loại dây củ vốn dễ
trồng, ngắn ngày và dễ đạt năng suất cao. Dây khoai làm rau luộc, nấu canh; củ
khoai làm lương thực thay cơm đắp đổi những ngày “thóc cao gạo kém”. Củ khoai
có thể chế biến nhiều món như: Khoai nấu, khoai nướng, khoai trụng, khoai
chà…còn có thể xắt lát phơi khô “ghể độn” vào cơm như sắn. Xanh xanh trong ký
ức tuổi thơ tôi vẫn mãi ngút mắt những vồng khoai lang dọc các biền bãi quê
làng.
Đã mấy chục năm đi qua của đời người. Quê
bây giờ lên phố đông vui. Những bữa cơm độn sắn khoai đã thành cổ tích. Đâu đó từ
thẳm sâu vời vợi của ký ức, trong tôi cứ vang ngân một dòng hoài niệm khôn
nguôi về những năm tháng khốn khó một thời. Đang miên man dòng hồi tưởng, tôi
giật mình trở lại với hiện thực. Hội An phố cổ lúc chiều tà. Tiếng rao bên kia
đường vọng lại: “Ai sắn luộc không!” , “Ai bắp nướng đây!” nghe xao xác đến
chạnh lòng…
Quê
nhà, tháng 5/2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét