Sự tích trầu cau trong cổ tích Việt Nam kể
lại câu chuyện thương tâm của hai anh em sinh đôi mà kết thúc là một bi kịch đã
cho đời sau một bài học quý giá về tình huynh, nghĩa đệ, về lòng thuỷ chung,
son sắt của đạo vợ chồng.
Người Việt chúng ta có tục ăn trầu từ rất xa
xưa, ăn trầu để cho răng chắc, ăn trầu để nhắc nhở mọi người học ở người xưa
những đức tính cao đẹp như trong chuyện trầu cau; và hình ảnh quê hương bao đời
không chỉ có "cây đa, bến nước, mái đình" mà còn có hàng cau tít tắp,
dây trầu xanh um bu quanh cây vông hay trên các tường vôi ngôi nhà cổ, để
chuyện trầu cau luôn là muôn thuở của làng quê.
Tôi không được sinh ra ở làng. Những năm
chiến tranh khốc liệt, cha mẹ tôi theo đoàn người lưu tán di dân vào tận miền
cao nguyên đất đỏ để kiếm miếng cơm manh áo. Tôi cất tiếng khóc trong cảnh tha
phương cầu thực của gia đình. Tuổi thơ chỉ man mán hình bóng quê nhà qua ký ức
của người cha và lời ru của mẹ: "Chiều
chiều ra đứng ngõ sau/ Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều".
Chẳng
ai biết lão từ đâu tới. Giọng nói của lão cũng không rặt giọng của vùng miền
nào mà pha trộn ngữ âm của nhiều vùng đất. Chắc chắn lão phải có một tuổi trẻ
dọc ngang đây đó. Tư Can nói như đinh đóng cột rằng lão là một tay anh chị
giang hồ đã hết thời, đi tìm chỗ mai danh ẩn tích, tránh mọi sự ân oán. Chín Hề
thì cãi, anh chị giang hồ gì lão ấy, chắc lão bị vợ con ruồng rẫy nên chán đời
trốn lánh về đây thôi. Mỗi người một ý, nhiều khi nhờ lão mà những buổi nhậu có
đề tài rôm rả hơn. Họ mượn lão làm mồi cho những buổi rượu gạo suông với đủ mọi
chuyện thêu dệt. Ai cũng như biết rõ về lão. Thật ra chẳng ai biết được một tí
chút gì.
Mùa
sim - nhưng không phải trong tôi chút cảm giác bâng quơ, xa vợi, lãng đãng như
sương khói chiều thu khi nhớ lại "Màu tím hoa sim" của nhà thơ Hữu
Loan; Bài tuyệt tác thi ca ấy đã nhận được sự đồng cảm của bao tâm hồn, và có
những nhạc sĩ mượn ý, mượn từ để viết thành giai điệu cho ca khúc của mình kể
về một chuyện tình bi tráng thời khói lửa: "Màu tím hoa sim, tím cả chiều
hoang biền biệt...", Ngày ấy ở tuổi mới lớn, đọc những câu thơ của Hữu
Loan, tôi và bạn bè cũng đã từng mơ mộng, bâng khuâng.
"Em đi phố huyện tiêu điều quá
Trường
huyện giờ xây kiểu khác rồi"
(Thơ Nguyễn Bính)
Có lẽ câu chuyện nên bắt đầu từ cây vải già
cuối làng. Cây vải cổ thụ ấy, lúc nhỏ tôi nghe người lớn trong làng bảo là nó
đã đứng đó từ hơn trăm năm rồi. Cái gốc xù xì chằng chịt ngoằn ngoèo vô số cộng
rễ nổi trên mặt đất, rễ nào cũng to bằng bắp chân người lớn. Cành lá sum suê,
còn thân nó thì bè ra y như một lực sĩ đứng giữa trời phô bày các bắp thịt rắn
chắc. Da cây vải xù xì khô cứng, chằng chịt những vết sẹo thời gian; riêng phần
gốc lớn đến nỗi cả hai người ôm không giáp vòng tay. Mùa trái chín, từng chùm
từng chùm đỏ ươm trĩu xuống, nhìn rực cả một góc vườn.
Muốn đến Hóa Quảng, trước đây phải đi qua bến
đò ông Bốn cái bến đã có bao đời nay, từ cái ngày đoạn sông được khơi nguồn để
nối với Thu Giang thành bến Vân Hồ, mênh mang mây nước thi ca. Nghe đâu ông Bốn
là thế hệ thứ tư trong gia đình làm nghề đưa đò qua đoạn sông đào này. Khi nhà
nước cho xây cây cầu hiện đại, ông Bốn phải bỏ cái nghề truyền thống đã bao năm
gắn bó với mình . Được xóm làng giúp đỡ ông chuyển sang chở cát xây dựng. Người
ta bảo giao thông là huyết mạch của văn minh thật chẳng ngoa chút nào.