Huỳnh
Minh Tâm
Nhiều
anh em văn nghệ đất Quảng biết Nguyễn Hải Triều là một "cây" chuyện
tiếu lâm, hài hước, dí dỏm, và chắc hẳn đã nhiều lần nghe anh đọc "lục
bát" kiểu : "mấy bà buôn bán chợ Cồn/ cái mình hắn mập cái tay hắn
to", "xắn quần mà lội Thu Bồn/ cái chi cũng ướt cái đầu khô
ran"... Tuy vậy, có lẽ ít ai biết Nguyễn Hải Triều còn là "nhà sưu
tầm" ca dao lục bát tuyệt hay, tuyệt đỉnh (theo thiển ý người viết bài này
vậy).
Nhiều
lần không biết vì sao, dòng chảy lục bát trong lòng tôi bị ngưng tắt trì trệ,
nhịp điệu đáng yêu, ngọt xớt vậy, đằm thắm vậy bỗng chạy biến đâu mất, lòng tôi
trống vắng làm sao. May thay, tôi tìm một quán cóc gặp Nguyễn Hải Triều để nghe
anh đọc một vài đoạn lục bát, ca dao cho đỡ nhớ. Nguyễn Hải Triều đã say sưa,
" tuý luý" đọc cho tôi nghe một số câu lục bát " chết
người"
Thương
tằm ngửa áo bọc dâu
Tưởng tằm có nghĩa hay đâu bạc tình
Nỗi
đau xé tâm hồn về sự tráo trở của nhân tình thế thái, niềm tin bị đánh cắp.
Anh về
cuốc đất trồng cau
Cho em trồng ké dây trầu một bên
Lòng
can đảm và chân thật của các cô gái khi thổ lộ tình yêu.
Đã sinh
ra kiếp con tằm
Không vương tơ nữa cũng nằm với tơ
Nặng
nợ nghĩa tình hay là tiêu cực với số phận ?
Bạc tình
chi rứa hỡi ai
Non cao úp mặt đường dài quay lưng.
Thói
đời đáng xấu hổ!
Ví dầu
cổ cắt đầu bêu
Đi ngang qua ngõ cũng kêu ớ chàng.
Tình yêu nồng nàn, sâu đậm
Hai tay
cầm bốn lượng vàng
Phụ mẫu biểu bỏ (em bỏ) ngãi chàng em
không.
Một
tấm lòng son sắt
Ví dầu
đan rọ thả sông
Trôi lên trôi xuống thiếp không bỏ chàng
Ví dầu tới huyện tới quan
Lỗi em em chịu lỗi chàng em xin
Một
lòng bao dung, cao cả.
Giản
dị mà sâu sắc, tình cảm nồng nàn, chân thật, không ngoa ngôn...cái hay của
những câu lục bát, ca dao trên chắc hẳn rồi. Nhưng với cái "cốt cách"
anh đọc, ám ảnh và say mê, chân thật và mến yêu, trân trọng như đang cầm giữ
một báu vật làm tôi cũng bàng hoàng sửng sốt mà "khen lấy khen để".
Có phải gan ruột máu thịt với ca dao vậy mà lục bát của Nguyễn Hải Triều cũng
"mon men" tới cái phần sâu thẳm đặc sắc của nó. Anh có những câu lục
bát thật hay, mặc dầu còn "nương" theo thi pháp ca dao "lâu
đời" và nặng phần hoài niệm, thương cảm
Nhả tơ
tằm chịu mồ côi
Thương nhành dâu héo một đời bên sông
Thể
hiện một tấm lòng lân mẫn, tha nhân rộng khắp
Lục
bát của Nguyễn Hải Triều là những câu thơ của tâm tình hiển nhiên đâu đó, qua
lớp chảy thời gian bỗng ứa ra, một góc của quê nhà rơm rạ, một góc của ái tình
nuối tiếc phù vân . " bữa về vượt cạn câu thơ/ lá trăng mềm rớt
cuối bờ trời quê/ phù du thắp lửa đêm hè/ trót đa đoan để bộn bề tháng năm/ bữa
về tao ngộ dòng sông/ lở bồi nên vẫn rộng lòng nắng mưa/ câu à ơi khuất lối
xưa/ mẹ ngồi vá víu sớm trưa mỏi đời/ bữa về mờ nẻo sương rơi/ bới lên dâu bể
gặp thời xa xăm/ muộn mằn chín một đời tằm/ vấp câu hát cũ tưởng trăm năm buồn/
ừ thôi em cứ ngọn nguồn/ lỡ làng tôi giữa sông thương lâu rồi/sóng xưa từng đã
thề bồi/ rót ly rượu đắng đợi người góc quê". Những câu lạc bát với
giai điệu thật đằm, tình cảm thật thắm thiết về mẹ và tuổi già, về em và lỡ
làng giữa quê hương ngỡ như cũ càng, sương mờ trong mộng. Viết đến đây tôi lại
nhớ Nguyễn Đức Dũng Điện Bàn, một người bạn của Nguyễn Hải Triều cũng có những
câu thơ đau đáu về quê hương : "đã đành quê kiểng hút heo/ đã đành
rơm rạ gieo neo phận người/ tháng năm khô cháy đất trời/ chưa quay lưng đã
tháng mười bão giông", hay như là "về đây núi đứng sông
ngồi/ đăm đăm phía cũ một tôi đắm đò/ phủi tay nửa bận giang hồ/ bỏ nhà xa lắc
xa lơ với nghèo/ cho qua đi sự đổ liều/ nỗi quê cứ rót tràn chiều tha
phương/ ai ngờ mỏi cổ cố hương/ trăm năm đã vụt mà sương mái
đầu". Dường như ở lục bát, ta đễ dàng bắt gặp những dòng ký ức tiếc
thương, những vô thường trường cửu đang bám đuổi khách giang hồ tha phương cầu
thực ở chốn ta bà.
Còn
với Nguyễn Hải Triều thì: Tôi còn rơm rạ mùa quê/ thương sông con nước bộn
bề phù sa/ ngẩn ngơ làn nắng tháng ba/ tiếng chim bìm bịp vừa xa vừa gần/ về
nghe sóng kể mênh mang/ bến trăng quê một lỡ làng xa xôi/ bờ xưa đất cũ đã bồi/
nỗi niềm quê có đứng ngồi đợi nhau...Cau vàng vôi trắng trầu xanh/ ngày em búi
tóc mà thành sơn khê...
Những
hình ảnh biến chuyển từ thực đến ảo, từ quá khứ đến vị lai, từ sầu đau số phận
đến buồn lênh láng nhân quần đã tạo ra độ rung nhất định của câu thơ, gây ấn
tượng mạnh mẽ cho người đọc.
Và
rồi dường như cũng có một hơi thở phong sương trận mạc trong các câu lục bát
của anh, bởi anh đã từng là lính chiến phong sương và giờ vẫn phong sương bụi
bặm. Bởi phong sương bụi bặm nên tếu táo hóm hỉnh. Rồi cái giọng thơ đặc mùi
quê, tình quê, đặc buồn rầu ly biệt:
À ơi cùng với lời mưa
Ru ta ngọn gió se sưa ngoài vườn
Nẻo đời trăm mối tơ vương
Vì nên ảo mộng vô thường thế thôi
Nhả tơ tằm chịu mồ côi
Thương nhành dâu héo một đời bên
sông
Ru em thân phận má hồng
Ru ta còn có bão giông thác nguồn...
Với
những gì đã dẫn, có thể nói rằng, ca dao lục bát với Nguyễn Hải Triều là một
báu vật thiêng liêng, mà cũng là một hơi ấm bao la bất tận để anh tìm về ngủ,
nghỉ, suy tư trăn trở và làm thơ. Cũng bởi vì quá yêu mến vậy, cho nên lục bát
của anh hay lặp các hình ảnh tơ tằm, rơm rạ, răng rứa lắm chi rất chi là ca
dao, kể cả cấu tư các bài thơ, cách diễn đạt đôi lúc thấm chất của ca
dao:"Trăng xưa vàng vỏ tóc mây/ dùng dằng chi lắm khuyết đầy để thôi/ tạ
người mang đến cho tôi/ chút dư hương của một thời đã xa/ hồn trần ngọt khúc
dân ca/ ai xui câu hát chim sa cá cùng.../ người về người ở bâng khuâng/ tôi và
ly rượu nợ nần với trăng". Tôi có cảm nhận, giá như đề tài thơ anh mở
rộng hơn, ngôn ngữ mới mẻ hơn, thơ có tính dự báo, triết luận, khái quát hơn
thì bài thơ sẽ nâng lên một tầm cao mới. Thiển ý là vậy. Dẫu sao, với những gì
mà Nguyễn Hải Triều đã học, đã đọc, đã viết về lục bát, ca dao, đã có những
thành công nhất định và rất đáng trân trọng!
HMT
Đồng ý với HMT: "giá như đề tài thơ anh mở rộng hơn, ngôn ngữ mới mẻ hơn, thơ có tính dự báo, triết luận, khái quát hơn thì bài thơ sẽ nâng lên một tầm cao mới". Nhưng chỉ lo có một điều, khi đã được "nâng lên tầm cao mới", thơ đã biến thành THỚ và Nguyễn Hải Triều lại thành NGUYỄN HẢI TRIẾU, tào lao tam đế cụi mất thôi!
Trả lờiXóa