Chủ Nhật, 6 tháng 4, 2014

NHỮNG NGÀY KHÓI LỬA

            Nguyễn Hải Triều

            Cứ mỗi mùa hè đến, nhìn dãy núi xa xanh dìu dịu chảy từ tây Trường Sơn xuôi dọc triền chân đồng quê tôi là cái oi nồng hình như biến đi đâu mất. Chưa nói đến việc chạy một mạch ra bờ sông Cái, ngâm mình vào dòng nước mát trong để nghe tiếng thì thầm của sóng và tận hưởng sự mát dịu ngọt ngào của con sông quê hương. Vậy đó, nhưng vào đầu mùa hè năm Bảy Tư, người dân quê tôi hình như không còn có được cái cảm giác như thế nữa. Không khí chiến trận, sự căng thẳng lo âu, hồi hộp về một sự kiện quan trọng  nào đó đang ánh lên trên khuôn mặt mọi người từ già đến trẻ...họ rỉ tai nhau những chuyện bí mật về thời cuộc, về bom đạn, về giải phóng,... và bảo rằng: "Cách mạng sắp về đánh đồn Thượng Đức!"

            Thuở ấy, với vốn nhận thức sơ đẳng của một học trò trung học. Từ nhỏ chí lớn sống ở khu dồn và chỉ biết học hành. Tôi và bạn bè trang lứa hiểu rất lờ mờ về những người phía bên kia mà lúc ấy họ gọi là "Việt cộng", nên chúng tôi rất lo sợ khi chiến sự xảy ra thì số phận mình và những người thân sẽ như thế nào? Trường tôi học nằm ngay dưới chân quận lỵ Thượng Đức. Lúc ấy tôi chỉ hiểu na ná rằng  Thượng Đức là một căn cứ quân sự, một cơ quan hành chính quận .  Nơi đây có rất nhiều đơn vị lính đồn trú, nào là biệt động quân, bảo an, dân vệ, cảnh sát dã chiến, cảnh sát chìm...Chung quanh là các khu trại tiếp cư san sát, chật hẹp của những người dân các làng từ Trúc Hà, Trung Đạo, Đại Mỹ, Thạnh Đại... hay bên Lộc Vĩnh, Lộc Ninh chạy tản cư về trú ngụ ( sau nầy tôi được biết đó chính là những khu dồn mà chính quyền cũ lập nên để xúc tát dân các nơi về làm bia đỡ đạn để bảo vệ bọn chúng trong cứ điểm Thượng Đức, ngăn các cuộc tấn công bằng pháo của quân giải phóng).
            Buổi học cuối cùng của năm ấy lớp tôi hình như vắng mặt đến gần một nửa. Một số đứa theo gia đình đi lánh nạn ở Đà Nẵng mục đích tránh nơi cho rằng chiến sự sắp xảy ra; ba bốn đứa khác nghe đâu vào núi và bị Cách mạng bắt giữ. Sau này kể ra mới biết, họ đều là cơ sở đi trước để nhận nhiệm vụ cách mạng giao trong ngày giải phóng.
            Một buổi sáng, người ta nghe có rất nhiều tiếng mìn nổ vọng lại từ núi xa. Rồi mọi người làng tôi đổ ra đường xầm xì to nhỏ khi phát hiện ra từ dãy núi phía An Điềm, một con đường đất đỏ xuất hiện mờ mờ như vết đất lở. Sự phán đoán về một cuộc tấn công quy mô của quân giải phóng vào đồn Thượng Đức được khẳng định chắc chắn hơn. Hôm ấy đi học về, tôi kể lại những điêu tai nghe mắt thấy với cha tôi.
            Hàng xóm láng giềng bảo cha tôi là người bất đắc chí với thời cuộc. Tính ông  trầm tĩnh, ít nói, luôn nghiêm khắc với con cái và cả bản thân mình. Có lần nghe cô Hai tôi kể rằng vào những năm Năm Tư, Năm Lăm, cha tôi từng tham gia hoạt động Hiệp thương chống chính quyền Ngô Đình Diệm ở quận Thượng Đức. Ông bị bắt và bị bỏ tù, bị tra tấn dã man, sau đó được thả về. Là người nặng nợ gia đình nên ông không muốn xa vợ con, chỉ an phận thủ thường.  Làm y tá ở Trạm xá quận, ông bảo với mọi người rằng làm cái nghề cứu người thì chẳng có lỗi gì. Ở tuổi mười sáu, mười bảy chỉ biết lo ăn học là chính, tôi chẳng thiết quan tâm nhiều đến chuyện người lớn, nên khi nghe cha nói tôi cũng chỉ cười chứ chưa hiểu sâu sắc ý của cha mình từ câu nói ấy.
            Sau bữa cơm chiều , trước khi mang xách thuốc lên trạm xá, cha gọi mẹ và mấy anh em tôi lại gần và nói: " Thời thế có biến đổi, khả năng Cách mạng sắp về đánh đồn Thượng Đức rồi. Có thể đêm nay hoặc trong những ngày tới. Mẹ sắp nhỏ lo chuẩn bị sắp xếp đồ đạc, vật dụng cần thiết thật gọn gàng cho vào các túi để sẵn; nếu có sự cố xảy ra thì đưa mấy đứa con theo làng xóm đi lánh nạn. Tôi tự lo liệu được cho mình, chỉ sợ mấy mẹ con thôi. Cái thời buổi loạn ly này, ai lường trước được mọi sự rủi ro, tên bay đạn lạc! Nhớ cẩn thận!" Quay sang chúng tôi, ông nói: "Các con nhớ phải rất nghe lời và luôn giúp đỡ mẹ những lúc khó khăn nhất!".Thuở ấy làng tôi là vùng tranh chấp, thường xuyên hứng chịu bom tấn pháo bầy mỗi khi có chiến sự xảy ra nên nhà nào cũng tự đào cho mình một căn hầm trú ẩn kiên cố. Căn hầm kèo nhà tôi đã có từ nhiều năm nay. Cha còn dặn tôi phải lo dọn dẹp căn hầm của gia đình phòng khi bom đạn bất ngờ có nơi lẩn tránh. Dặn dò xong mọi điều cần thiết, cha tôi lên trạm xá quận ngay chiều tối hôm đó. Nhìn theo bóng cha tôi đi về phía đầu làng, tôi linh cảm hình như sẽ có một điều gì đó không mấy bình yên sẽ đến với gia đình tôi trong những ngày tới.
            Đêm ấy, dưới cái bóng hiu hắt của ánh đèn dầu lù mù, mẹ tôi ngồi lục soạn quần áo, vật dụng cần thiết của gia đình cho vào từng bọc vải và phân công chúng tôi mỗi đứa một gói, dặn phải đeo bên mình rủi như khi có sự cố xảy ra. Rồi mẹ tôi lại đi ra, đi vào lo lắng suốt đêm. Mẹ lo cho cha, cho anh em tôi!
            Quả đúng như dự đoán của mọi người. Khuya ấy, trong cơn ngủ chập chờn tôi giật mình tỉnh dậy. Tiếng súng đang nổ dồn tứ phía, cả làng tôi nhốn nháo hẳn lên. Tiếng la khóc của trẻ nít, tiếng gọi nhau í ới xen lẫn tiếng rít gầm của nhiều loại súng đạn nổ chát chúa. Tôi chồm dậy lôi mấy đứa em xuống hầm. Mẹ tôi sờ soạn châm ngọn đèn dầu, đèn vừa đỏ thì nghe một tiếng nổ lớn, hơi gió quất mạnh làm ngọn đèn tắt ngúm. Thằng cu Ri, con bé Lạc sợ quá khóc thét lên. Mẹ biểu tôi dỗ em, rồi thắp lại ngọn đèn cho sáng căn hầm. Mẹ ngồi ngay cửa. Mẹ trấn an chúng tôi: " Các con đừng khóc, mọi việc rồi sẽ đâu vào đó. Cả làng chứ chẳng phải chỉ nhà mình!..." Tiếng súng cứ liên hồi không ngớt. Ánh lửa đạn sáng rực một góc trời. Tôi nghe tiếng chân người chạy thình thịch. Tiếng hô xung phong dậy lên đâu đó phía đầu làng. Một bóng người thấp thoáng trước căn hầm nhà tôi. Tôi nghe người ấy nói với mẹ: "Chị ơi, cho em trốn với! Việt Cộng đánh vô tới đầu làng rồi!". Té ra là anh chàng Nghiệp, lính nghĩa quân đóng ở nhà Hội thôn. Anh ta kể cả trung đội của mình bị quân giải phóng tấn công không kịp trở tay, chạy tan tác. Rồi anh ta năn nỉ mẹ tôi cho mượn bộ quần áo dân thường của cha để mặc vào và vứt ngay bộ đồ lính đã bê bết bùn đất. Anh ta nói: " Em phải trốn về Dục Tây với vợ con em thôi!" Nói xong anh ta chạy biến vào đám khói mù và ánh chớp nhùng nhằng lửa đạn.
            Đến mờ sáng, dọc theo các ngã đường làng tôi đã thấy thấp thoáng bóng các anh giải phóng quân quần áo xanh rừng, mũ tai bèo, lựu đạn chéo ngang lưng, súng tiểu liên chạy đi chạy lại. Một người chạy vào đứng trước cửa hầm nhà tôi và nói: " Bà con mau sơ tán ra khỏi làng để tránh máy bay của địch đến ném bom! Nhanh lên bà con ơi!"Nói xong, người ấy lại chạy sang những nhà khác. Tôi bước ra phía miệng hầm, mang gói quần áo mẹ đưa, một tay bồng con Lạc, tay kia dắt thằng Ri băng ra trước, mẹ tôi đôi gánh trên vai, tay lôi con Lung, thằng Toàn, Thằng Rân hối hả chạy theo đoàn người lánh nạn. Tiếng la khóc, gọi nhau, tiếng súng nổ, ánh chớp sáng loà nhốn nháo cả một vùng quê. Vừa ra đến đầu làng, trời đẫ sáng rõ, nhìn cả không gian ngập chìm trong lửa đạn, thấy phía Hà Tân, Thượng Đức lửa cháy ngút trời. Những cột khói đạn đen ngòm cao vút, lòng tôi thoáng nỗi lo âu cho cha, chẵng biết giờ nầy ông đang ở đâu trong đám khói lửa mờ mịt ấy và có được bình yên không?  Tôi biết mẹ tôi bây giờ cũng đang bời bời lo lắng đến nát lòng. Sau một hồi nhốn nháo hoảng loạn, người dân làng tôi cũng băng qua được cánh đồng lúa đang trổ đòng, chạy xuống hàng tre phía biền ông Kình nơi bờ nam sông Con để đào hầm trú ẩn. Rồi suốt cả ngày đêm hôm đó, nhân dân cả làng tôi và các làng lân cận vừa trú tránh bom đạn vừa chứng kiến tận mắt cảnh chiến trường khốc liệt của những ngày đầu nổ ra chiến dịch Thượng Đức.
            Ở ngoài biền sông Con được một ngày đêm. Khuya ấy, theo sự hướng dẫn của cán bộ cách mạng, gia đình tôi theo chân dân làng xuyên đêm, xuyên rừng tản cư lên nguồn để tránh vùng chiến sự đang xảy ra. Đi suốt một ngày, trèo dốc lội suối, chúng tôi đến được một nơi có tên gọi là Cột Bườm, cách chỗ súng nổ gần một ngày đường. Nhân dân được tổ chức tự quản, mọi người lo làm láng trại tạm thời để trú nắng mưa và đào hầm tránh máy bay. Mẹ tôi chọn một khoảnh đất bằng phẳng nơi góc rừng, bảo tôi phát dọn sạch sẽ. Phải mất hai ngày chặt cây, đốn nứa, có hàng xóm giúp đỡ mẹ con tôi mới dựng được một căn trại nhỏ kín gió và che được nắng mưa. Chúng tôi được cấp khẩu phần ăn mỗi ngày; người lớn một lon rưỡi, con nít một lon gạo. Chính quyền cách mạng vận động nhân dân phát rẫy trồng sắn, trồng rau để tự túc sau khi đã ổn định chỗ ăn, ở. Trong khi đó chiến sự vẫn tiếp diễn ở cứ điểm Thượng Đức. Tiếng súng cứ ùng oàng, từng tốp tù binh với nhiều sắc lính bị các anh chị du kích giải đi về phía căn cứ trên nguồn. Từng đoàn chiến sĩ giải phóng hối hả tiến về phía mặt trận. Thanh niên và những người dân mạnh khoẻ vừa sơ tán lên được vận động đi khiêng thương, tải đạn phục vụ chiến trường.
            Cả nhà nhận tin cha tôi mất vào ngày thứ sáu từ khi cả làng sơ tán lên Cột Bườm. Khi ấy tôi còn đang đốn nứa ở  bên kia sông.  Vác bó nứa về đến láng trại, thấy mọi người đứng chật cả lối vào, tôi linh cảm ngay chuyện chẳng lành. Mẹ và các em tôi khóc, cô Hai cũng khóc, còn tôi đứng chết lặng. Thế là từ nay người cha thân yêu, chỗ dựa vững chắc của gia đình không còn nữa! Chẳng biết số phận của gia đình tôi sẽ đi về đâu? Tôi nghe kể lại rằng: Vào sáng ngày thứ hai súng nổ, cha tôi đang băng bó cứu chữa cho một số người bị thương cả dân và lính thì một loạt bom từ máy bay trút xuống, một trái rơi trúng làm sập cả trạm xá quận giết chết tất cả mọi người, trong đó có cha tôi. Sau nầy tôi  biết thêm, thi hài cha tôi được ông Mười và chú Tám  chôn cất sơ sài ngay bên đống gạch ngói đổ nát của trạm xá. Rồi mãi hơn một năm sau đó, khi từ khu sơ tán trở về, anh em tôi mới có dịp đem hài cốt của cha  cải táng trên nghĩa trang gia tộc. Hôm nhận tin cha tôi chết, mẹ tôi đau đớn khôn cùng, nhưng rồi bà cũng tự gượng đứng lên. Tôi thầm nhủ rằng cả làng đâu chỉ có gia đình mình mất mát, Nào ông Gang ở xóm trên, bác Hoà, ông Tri, thằng Tặng ở xóm dưới và biết bao nhiêu người xấu số khác cũng đã ra đi. Chiến tranh, hòn đạn mũi tên có chừa ai đâu.Tôi an ủi mẹ và các em. Rồi nỗi đau cũng nguôi dần.
            Sau mười ngày bom đạn ác liệt, Thượng Đức được giải phóng. Người dân khu dồn Hà Tân lũ lượt sơ tán lên nguồn gần nơi chúng tôi ở. Chính quyền cách mạng lo chỗ ăn, chỗ ở cho cả hơn mười lăm ngàn người. Cái đói khát, bệnh tật, sốt rét rừng... đang rình rập đến cuộc sống từng người, từng gia đình. Tôi là một trong những thanh niên đầu tiên được chọn vào đội du kích thôn, được vũ trang để về bảo vệ làng. Nghe đâu thời điểm ấy, lính thuỷ quân lục chiến, lính dù đang đổ quân nhằm tái chiếm Thượng Đức. Tôi cùng bạn bè theo hướng dẫn của cán bộ cách mạng  về lại làng cũ. Mẹ tôi nhìn theo trong ánh mắt lo âu nhưng không nói gì. Những ngày ở làng, ngày đêm máy bay quần thảo trên trời thả bom và bắn phá mỗi khi phát hiện ra mục tiêu của quân giải phóng. Lại thêm pháo tăng tốc từ biển bắn lên không ngớt. Trên đồi 1062, chiến sự diễn ra ác liệt giữa bộ đội và lính dù suốt nhiều tháng ròng rã trước khi quân dù chịu thất bại, co cụm lại và chạy dài. Những ngày tôi làm du kích ở thôn rồi lên xã, mẹ và những đứa em tôi cũng thỉnh thoảng theo bà con xóm giềng về làng để cắt lúa, gùi cõng lương thực, thực phẩm lên khu sơ tán. Mẹ gặp tôi lại dặn dò đủ thứ chuyện, chỉ sợ rủi ro lại đến với gia đình  như cha tôi đã ra đi. Tôi luôn trấn an cho mẹ tôi yên lòng. Tôi muốn khẳng định bản thân mình với những gì tôi đang gặp trong cuộc đời. Thời gian nầy mặc dù Thượng Đức đã được giải phóng nhưng tranh chấp vẫn rất khốc liệt trên đồi 1062. Lực lượng du kích chúng tôi thay phiên cứ hai ba ngày được chỉ huy cử đi vào tận chân đồi 500 để chuyển thương binh và tiếp tế lương thực, đạn dược cho bộ đội đang chiến đấu. Đứa em gái kế tôi vừa về đến làng thì phát bệnh sốt ác tính. Rất may nhờ các anh bộ đội ở trạm phẩu tiền phương đang phục vụ chiến trường 1062 đóng ở làng Dục Tây cứu chữa em tôi mới qua khỏi.
            Tôi được cử đi học khoá sư phạm cấp tốc do Ty Giáo dục Quảng Đà mở tại chiến khu Giằng vào thời điểm những trận đánh giữa bộ đội sư đoàn 304 và quân dù ngụy trên đồi 1062 sắp bước vào giai đoạn kết thúc. Học được gần hai tháng thì lớp học bế giảng. Thời gian nầy đã vào độ đầu xuân năm Bảy Mươi Lăm. Bà con trên vùng sơ tán đã rải rác kéo về làng cũ. Tôi và một số đồng nghiệp khác được sự hướng dẫn của các anh cán bộ Phòng Giáo dục huyện làm nhiệm vụ tổ chức các lớp học cho các em tại vùng giải phóng Thượng Đức. Những ngày tháng dạy học ở đây thật nhiều kỷ niệm khó quên. Chúng tôi vừa dạy học vừa cùng học trò  lo cảnh giác để tránh các loạt pháo bầy từ sân bay Nước Mặn bắn lên Thượng Đức cho đến ngày giải phóng Đà Nẵng. Rồi cuộc Tổng tấn công và nổi dậy vào Mùa Xuân năm  Bảy Lăm, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
            Đã tròn ba mươi lăm năm, những ngày khói lửa ngút ngàn ấy vẫn còn in đậm trong ký ức  người dân Thượng Đức, trong đó có gia đình tôi. Những gian khó, mất mát ngày ấy sẽ mãi mãi là những dấu ấn khó phai mờ với mỗi cuộc đời. Còn với quê hương tôi sẽ mãi là khúc ca bất tử hát về truyền thống kiên cường của vùng đất, con người  nơi đây một thời bom đạn.
                                                Tháng 7.2009
                                                           N.H.T                 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét