Bút ký
LỬA THÁNG BA
Nguyễn Hải Triều
Những ngày đầu tháng Ba năm
Bảy lăm…
Bảy tháng – tính từ ngày
Thượng Đức được giải phóng. Trong bảy tháng, liên miên những trận chiến
kéo dài khốc liệt giữa bộ đội Sư đoàn 304 và Quân đoàn lính Dù Sài Gòn
trên điểm cao “đỉnh máu” 1062. Sau những ngày đêm ròng rã máu lửa, đến thời
điểm này cũng đã lắng xuống. Quân địch co cụm lại và tháo chạy về phía Ái Nghĩa.
Dưới sự động viên của Chính quyền Cách mạng, nhân dân từ các vùng sơ
tán ở ngã sông Con như Làng Hiệp, Bồ Lô Bền; ngã sông Cái từ hướng Thạnh
Mỹ, Đá Trắng, Đầu Gò, Ba Tớt, Đồng Chàm…họ lần lượt trở về làng khai
hoang vỡ hóa, tăng gia sản xuất lương thực, thực phẩm, góp phần cải
thiện đời sống, chống chọi bệnh tật, gian khó, đạn bom trong những
ngày đầu khi quê hương vừa thoát khỏi ách kìm kẹp của quân thù.
Về làng. Ban đầu chỉ
là những người trụ cột lao động trong gia đình. Rồi đến phụ nữ,
thiếu niên, trẻ nhỏ… rồi cả nhà cùng về. Làng xóm lại nhộn nhịp
trở lại, dù rằng là sự nhộn nhịp của thời chiến. Ban tự quản thôn,
các đoàn thể Phụ nữ, Nông hội, Thanh
niên…tổ chức sinh hoạt; đội du kích thôn, du kích xã canh gác giữ làng,
phục vụ chiến trường khiêng thương tải đạn.
Chúng tôi những thanh
niên lứa tuổi mười chín đôi mươi, bằng cả nhiệt huyết của tuổi trẻ,
bằng cả tấm lòng đối với quê hương và như đã nắm bắt được con đường
tương lai, nắm bắt được lý tưởng để cống hiến; chúng tôi nhập cuộc
vào sứ mệnh được giao một cách đường hoàng, không e dè, ngần ngại.
Từ ngày đầu mới giải
phóng Thượng Đức, sau khóa học 7 ngày tại trường Quân Chính của tỉnh đóng ở
Thạnh Mỹ (Nam Giang bây giờ), mỗi chúng tôi được các ban ngành của tỉnh, Khu,
Miền đến tuyển lựa về tham gia công tác Cách mạng. Những ngày tháng này thật
đáng nhớ với mỗi chúng tôi. Mới ngày nào còn là những cậu học sinh trung học
Thường Đức, Đại Lộc, Trần Quý Cáp (Hội An), bỗng sau một thời gian ngắn, có
người trở thành anh giải phóng quân mũ tai bèo, súng AK, trèo đèo lội suối, nếm
trải gian khó hiểm nguy trận mạc; có người trở thành cán bộ giải phóng tham gia
vào các ban ngành: Giao thông vận tải, Dân y, An ninh, Giáo dục, Du kích,…từng
đoàn người, với hành trang gùi võng, ruột nghé gạo, súng đạn… tỏa đi các nơi,
xuống tận vùng giáp ranh như Xuyên Trà, Bình Dương, Hòa Vang…mỗi người, mỗi đơn
vị một nhiệm vụ, háo hức cho ngày giải phóng quê hương.
Tôi và mấy người bạn được
Ty Giáo dục Quảng Đà tuyển chọn. Sau một thời gian học lớp sư phạm cấp tốc,
cùng các anh chị đồng khóa về lại Thượng Đức, đi xuống các thôn của xã Lộc Bắc,
Lộc Bình, Lộc Vĩnh, Lộc Ninh…tổ chức các lớp học với quyết tâm dù trong hoàn
cảnh chiến trận vẫn không để cho lớp trẻ thất học. Được các anh chị cán bộ
Giáo dục của huyện như anh Thức, anh Hanh; của tỉnh như anh Lê Tấn Công, chị Huế, chị Nghĩa giúp
đỡ, hỗ trợ…lần lượt các lớp học được ra đời. Dù trên bom dưới đạn
vẫn duy trì được nền nếp.
Những ngày tháng
này, mỗi khi nhớ lại làm sao có thể quên được. Cuộc sống vật chất
thiếu thốn trăm bề. Chúng tôi hàng tháng về huyện (đóng tại Hội Khách,
Lộc Ninh) để nhận tiêu chuẩn lương thực 45 lon gạo cho một người, thực
phẩm tự túc. Học trò và thầy giáo đôi khi không chênh lệch nhau lắm
về tuổi tác vẫn chung lớp chung trường không chút ngại ngần e dè, tự
ti. Những buổi học dở chừng phải dừng lại xuống hầm tránh pháo; những
lần nghỉ dạy cùng các anh xá đội vào tận các trận địa dưới chân đỉnh 1062 để
khiêng thương, tiếp tế thực phẩm, đạn dược cho các đơn vị bộ đội đang chiến
đấu. Có những ngày nghỉ vào Gò Hiu làm phân xanh để bón đồng canh tác
lúa… đầy ắp tình thầy trò.
Những ngày đầu tháng Ba
năm ấy, Quân giải phóng bắt đầu các chiến dịch bằng những trận đánh lấn về phía
đông. Các đơn vị bộ đội của Sư đoàn 304, của bộ đội Quảng Đà…đêm đêm hành quân
hướng về phía biển. Mỗi ngày, thông tin các vùng Hà Nha, Lam Phụng, Bàng Tân
vừa được giải phóng, quân địch tháo chạy về Ái Nghĩa. Nhân dân các vùng dưới ấy
tản cư lên Thượng Đức để tránh bom đạn. Nhà nhà ở các làng từ Đại An đến Dục
Đông chật người lánh nạn. Hơi hướng không khí của một ngày giải phóng Đại Lộc,
Đà Nẵng, sum họp Bắc Nam ,
thống nhất đất nước như cứ đang đến gần, đến gần…
Nhân dân các thôn theo
lệnh của Ủy ban Nhân dân Cách mạng huyện, xã, Ban tự quản thôn cho thành lập
các đội xung kích ở các đoàn thể, sẵn sàng lên đường nhận nhiệm vụ khiêng
thương tải đạn phục vụ chiến trường. Chúng tôi là giáo viên, ngoài nhiệm vụ dạy
học, được Phòng Giáo dục chỉ đạo tham gia vào lực lượng du kích xã, thôn; khi
cần bổ sung vào lực lượng chiến đấu và thực hiện theo lệnh cấp trên khi có tình
huống cần thiết.
Một buổi sáng vào
khoảng trung tuần tháng 3 năm1975, tại cơ quan thôn Hà Dục Tây xã Lộc
Bắc, tôi cùng chị Huế, chị Nghĩa, là cán bộ trên ty Giáo dục về
đứng cánh để mở một lớp học mẫu giáo thi điểm. Cả buổi sáng,
chúng tôi dán băng khẩu hiệu, trang trí cờ hoa, ảnh Bác Hồ để chiều
mời bà con trong thôn và các cháu học sinh đến tổ chức lễ khai giảng.
Trưa hôm ấy, đang loay hoay hoàn tất những phần việc cuối thì có báo
động xuống hầm tránh pháo. Chúng tôi vừa vào hầm trú ẩn
trì nghe một tiếng nổ chát chúa trên đầu mình, mảnh pháo văng tứ tung.
Xong trận pháo kích của địch, vừa chui lên khỏi miệng hầm trú ẩn thì
ai nấy trong chúng tôi đều không khỏi bàng hoàng với quang cảnh bày ra
trước mắt: Cả ngôi nhà họp vừa trang trí để tổ chức lễ khai giảng
đã thành một đống gạch vụn, đổ nát, tan hoang bởi một trái pháo 155
ly của địch từ cứ điểm Bồ Bồ bắn
lên. Hành động điên cuồng bắn phá về phía vùng giải phóng đã cho thấy sự hoảng loạn đến
tuyệt vọng của kẻ thù; càng củng cố thêm niềm tin của nhân dân cho một chiến
thắng không còn xa nữa.
Rồi cho đến cái ngày
28 tháng 3 năm 1975, với khí thế tiến công như thác đổ, những cánh quân từ
vùng A Thượng Đức tiến xuống, vùng B tràn qua, nổi dậy và tiến công. Cầu Chìm,
Núi Lở, Ái Nghĩa giải phóng, toàn huyện Đại Lộc được giải phóng. Khi tàn quân địch tháo chạy, chẳng hiểu
vì lý do hoảng loạn nào đó mà bọn chúng đã trút hàng loạt những
pháo kép pháo bầy từ sân bay Nước Mặn, từ các hạm đội ngoài
biển…về phía Thượng Đức. Hôm ấy, cả cánh đồng, ven sông, làng mạc
của Lộc Bình, Lộc Vĩnh, Lộc Bắc… đều bị pháo rơi trúng nhiều nơi.
Vào lớp buổi sáng, chúng tôi chỉ kịp sơ tán học sinh xuống hầm trú
ẩn. Mảnh đạn pháo phạt nát cả cây
cối, ruộng đồng, vườn tược, nhà cửa. Tôi đang dạy các em lớp ba ở
nhà ông Hoành, thôn Đại An. Đạn pháo nổ quanh lớp học. Có những mảnh
đạn rơi cách tôi chưa đầy nửa mét, quay vù vù găm vào mấy thùng phuy phát
ra âm thanh chát chúa nghe đến rợn người. Khi các em đã vào hết trong hầm
trú ẩn, hầm chật nên tôi phải ngồi ngay trước cửa, tuy có chút nguy
hiểm nhưng cũng thấy an tâm phần nào cho những đứa học trò của mình.
Đến trưa, chờ cho đợt pháo dứt hẵn tôi mới cho các em chạy về nhà. Chiều hôm đó,
nhận được tin chiến thắng từ huyện hỏa tốc gởi về, tôi cùng một số anh em trong
tổ thông tin của xã Lộc Bắc do chú Lê Văn Thọ chỉ huy đi phát loa thông tin cho
bà con nhân dân trong toàn xã được biết quê hương Đại Lộc được giải phóng. Bản
tin đọc trên loa phóng thanh cả mấy chục lần đến khản cả giọng rồi mà chúng tôi
vẫn không muốn dừng lại; cảm xúc cứ rưng rưng. Rồi với khí thế tiến công và nổi
dậy như thác đổ, ngày hôm sau, 29 tháng 3 năm 1975, Đà Nẵng cũng được giải
phóng hoàn toàn.
Bốn mười năm đã trôi qua,
so với sự hữu hạn của đời người thì là khoảng thời gian quá dài. Nhưng với
chúng tôi, những ngày khói lửa ngút ngàn ấy vẫn còn in đậm trong ký ức, trong
tâm khảm mỗi người ngỡ như mới hôm qua. Ngọn lửa tháng Ba năm ấy, với bầu nhiệt
huyết của tuổi trẻ cháy bỏng sẽ mãi mãi là những dấu ấn khó phai mờ với mỗi
cuộc đời. Còn với quê hương, sẽ luôn là khúc ca bất tử hát về truyền thống kiên
cường của vùng đất, con người nơi đây một thời bom đạn.
Quê nhà
Tháng 3/2015.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét