Huỳnh Minh Tâm
Cuộc sống của mỗi người riêng
biệt kỳ lạ, tuyệt vời đến mức chúng ta ngỡ đã hiểu, đã đào sâu, sâu đến
mức…dường như chúng ta lại biết rất ít về đối tượng- chính ta hoặc những người
thân yêu, gần gũi, và chính đây là cội nguồn của thi ca ? Thi ca kết
duyên với cái chưa biết, khó dò, những giấc mơ và tự do. “Lưng chừng nắng
với mênh mông/ lặng im sông chảy mà không nói gì/ hình như lau cũng gầy đi/ lơ
thơ tóc muối người đi sông buồn/ tháng năm chớp bể mưa nguồn/ mây còn trắng để
trời buông nắng ngàn” (Bài lục bát gửi sông).
Đọc thơ nguyễn Hải Triều là đọc,
là thọc, là vén những giấc mơ ngọt ngào và đắng đót, mơ mộng và chân thực của
một tâm hồn đa cảm, đa đoan, nhưng cũng vô cùng gây cấn, gây hấn. Chính vậy nên
thơ anh đầy đặn, tràn trề tựa dòng sông Vu Gia của quê hương anh chảy suốt bốn
mùa không ngừng nghỉ, không khô cạn, chảy như một lẽ hiển nhiên, chảy cho đỏ au
phù sa, chảy cho lên xuân hai bờ cây trái. “Buồng cau đỏ mắt/ đợi người/ lơ thơ
thốt/ tiếng trái rơi/ động hồ…” (Quán chiều). “Dễ chi đâu năm lần bảy
lửa/ khi đường đời vạn nẻo gai chông/ ngoảnh bước đi về dùng dằng cố xứ/ bỏ lại
mình con rong ruổi đất Sài Gòn” (Viết cho con trai) - chất giọng cổ
điển nhưng tình thơ có lửa.
Nét đẹp tự do trong thơ Nguyễn
Hải Triều là nét đẹp của cách nói, cách nhìn cuộc đời của anh ( cũng là đời
sống thường nhật của anh vậy). Dường như anh “ít ý tứ”, ít “nói vòng vo”, mà
bập ngay vào sự kiện, bỗ bã, đã đời : “Chếnh choáng với đời đôi chén rượu/
ta còn lưng túi mấy câu thơ/ nợ áo cơm đi cầm bớt tuổi/ nên tóc xanh sớm bạc
đến bây giờ” (Chùm thơ bốn câu 7). Hai câu cuối “ nở” một hình ảnh đẹp,
cách tư duy “ hóm”, có chất “tráng sĩ hề”, gợi một chút “phong trần” của thơ
Quang Dũng. Cảm thức này còn trải dài trên hành trình thơ của anh, ở cái linh
diệu óng ánh của một khổ thơ hay : “Lúng liếng mắt cười trẻ mành đỏ/ nhạc
rung hồn lãng phách lưng trời/ ai ủ ngày lên gót hài chinh chiến/ Ghé quán bên
đường “mùa em thơm nếp xôi” (Qua Mai Châu nhớ Quang Dũng). Các từ ngữ
“ lúng liếng”, “ trẻ mành”,“lãng phách”, “ủ ngày” đã tạo dựng nên một bức phá
trong thơ anh.
Những ký ức của Nguyễn Hải Triều
vô cùng rạng rỡ, thế nên lục bát của anh chín đằm, thắm thiết (dẫu có ray rứt
xiết bao cũng là xiết bao thắm thiết!). Khi đọc tập “Lời ru lá
cỏ” này, tôi hy vọng bạn đọc cũng rất ấn tượng với lục bát của anh đẫm
luyến láy, hình tượng gần gũi ca dao. “Em về tơ tưởng mùa sang/ đìu hiu
sương khói ngỡ ngàng thu xưa/ ừ thôi để ướt cơn mưa/ ướt câu lục bát trắng mùa
đợi trông” (Lục bát nhớ). Rồi gặp những giấc mơ ngổn ngang (ngảng
ngôn mà rạo rực).“Ngược sông về gặp chiêm bao/ nợ nần chi nữa giấu vào đa mang/
câu thơ gửi cánh chim ngàn/ yêu thương khéo bọc ngổn ngang tình
đời” (Chuyện xưa).
Bài viết ngắn này không có tham
vọng khai mở một nghìn cánh cửa để đi vào một ngôi đền thơ, mà chỉ xem là những
khắc họa ít ỏi, những dấu ấn của riêng tư người viết, như vài ngọn gió thoảng qua
vòm lá xanh tươi, vỡ tung vài giọt sương sớm. “Lời ru lá cỏ” vẫn miên
man đâu đấy, lất phất đâu kia, những dòng thơ vẫn lấp lánh chờ người yêu thơ
hòa điệu thổi gió về cuộc sống giàu cái đẹp.
Đại Lộc, ngày 14 tháng 2 năm 2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét