Nguyễn hải Triều
Có một câu chuyện xảy ra từ rất lâu. Tại làng Phụng Trì ( nay là thôn Lam Phụng xã Đại Đồng huyện Đại Lộc tỉnh Quảng Nam). Câu chuyện kể về một người phụ nữ goá chồng, sinh đến năm người con nhưng còn nhan sắc và đặc biệt rất tài hoa văn hay, ứng đối giỏi.
Một hôm có người đàn ông tên Bốn
Kế, một nho sinh cũng thuộc hạng học rộng, biết nhiều từ Điện Bàn lên Đại Lộc “
tầm sư học đạo”. Nghe tiếng người phụ nữ giỏi giang bèn tìm đến để thử tài. Họ
gặp nhau trong một đêm hát hò khoan, sau vài câu hát chào xã giao thăm dò đối
thủ, Bốn Kế bèn ứng khẩu:
Trên sơn dười thuỷ em bậu giữ kỹ làm gì
Tiền thân hậu phúc, kiếm chút ấu nhi mà bồng?
Người phụ nữ kia không cần suy
nghĩ, đáp lại ngay:
Trên sơn dưới thuỷ đây ta có giữ kỹ cũng ra đám đất bằng
Ngày sau bạn có chết thì lập cái lăng mà thờ!
Người đàn bà đối đáp trí tuệ đó
có tên thường gọi là Bà Bang Nhãn, một văn sĩ của đất Đại Lộc vào những năm
cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
Bà Bang Nhãn tên thật là Lê Thị
Liễu, sinh năm Quý Sửu (1853), tại làng Phụng Trì. Chồng bà, ông Phan Hữu Quỳ
làm chức Bang Tá, quê làng Gia Cốc, Đại Minh. Vì có con đầu lòng tên là Nhãn,
nên người ta thường gọi bà là Bà Bang Nhãn.
Thuở sinh thời, bà tỏ ra là
người có tư chất thông minh khác thường. Được dạy dỗ chu đáo. Lớn lên đi lấy
chồng, được làm dâu trong gia đình khoa cử. Môi trường ấy đã tạo cho bà thành
một phụ nữ thông thạo tri thức Nho học, có phong cách hào hoa và quan hệ rộng
rãi, thường xuyên gặp gỡ, giao lưu thơ văn với tầng lớp tú, cử, nho sinh trong
vùng. Bà rất yêu thơ Đường, mê Kiều và hát bội. Bà cũng nổi tiếng về tài nội
trợ, nấu ăn, làm bánh, chăm sóc chồng con. Nói chung là một phụ nữ công,dung,
ngôn, hạnh, tài đức vẹn toàn. Chồng mất sớm lúc bà mới ba mươi tư tuổi. Bà một
mình nuôi nấng dạy dỗ năm người con khôn lớn. Sống đức độ, thuỷ chung, bà luôn
được mọi người quý mến, nể trọng.
Cuộc đời Bà Bang Nhãn đã chứng
kiến nhiều biến cố lịch sử quan trọng của xã hội: Năm 1858, lúc bà năm tuổi,
giặc Pháp tấn công Đà Nẵng mở đầu cuộc xâm lược thực dân trên đất nước ta. Năm
1883, khi bà ba mươi tuổi thì Nguyễn Duy Hiệu hưởng ứng phong trào Cần Vương,
lập Nghĩa Hội Quảng Nam, xây dựng căn cứ ở Trung Lộc ( Quế Sơn) và 9 xã Sông
Con, lấy Đồng Hà Sống ( Đại Lộc) làm tiền đồn án ngữ để kháng chiến chống Pháp.
Năm 1908, ở tuổi năm mươi, bà lại được chứng kiến một sự kiện lịch sử nay tại
nơi bà sống là cuộc chống sưu thuế nổ ra tại Đại Lộc và lan đi cả tỉnh, cả
nước. Cuộc đấu tranh ấy bị giặc Pháp và triều đình Huế đàn áp đẫm máu.
Là người phụ nữ có tri thức, có
tài năng; đã sống và chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, lòng người ly tán. Bà
Bang Nhãn có tham gia tích cực các phong trào đấu tranh yêu nước đầu thế kỷ 20.
Bà vừa là cô giáo, vừa là người cổ động nhiệt tình cho phụ nữ đi học trong
phong trào Duy Tân. Là người vận động tài chính đắc lực cho phong trào Đông du.
Là một trong những sáng lập viên Hội Hiệp thương nông lâm sản Hội An.
Tâm trạng bà bấy giờ thể hiện rõ
trong thơ văn, một nỗi thương cảm quê hương, căm thù uất hận khôn cùng lũ giặc
ngoại bang đang dày xéo trên tổ quốc bà và mỉa mai, khinh thường bọn quan lại
bù nhìn dốt nát, chỉ biết làm tay sai cho kẻ thù, phản bội lại dân tộc, dựa thế
thực dân Pháp ra sức vơ vét, bóc lột, đàn áp nhân dân. Đối với bọn này, dưới
mắt Bà Bang Nhãn chỉ là một lũ sâu mọt bất tài vô dụng. Xin được trích dẫn dưới
đây những giai thoại về bà khi gặp tri huyện Hồ Thiều và chánh tổng Đức Hoà:
Hồ Thiều là người Huế, vào làm tri huyện Đại Lộc. Biết Bà
Bang Nhãn làm thơ, một hôm cưỡi ngựa đến nhà ra đề thơ cho bà với phong cách
cao ngạo, xem thường phụ nữ:
Mâm thau nhịp, mâm nan cũng nhịp
Phượng hoàng đua, bìm bịp cũng đua!
Bà đáp làm lại ngay:
Đua nhịp, răng ai cũng rứa thê
Mâm nan, bìm bịp, nguỵ chưa tề?
Chuốt trau lông cánh lên ngàn nhẫn
Chung chạ thanh âm đủ tám nghề
Sen lúc rả bằng xơ xác cũng
Bèo khi gặp nước đững đừng chê
Leo thang chớ vội chê cười cóc
Cung nguyệt cao xa cũng hẹn về!
Bài thơ đã dùng ngôn ngữ của địa
phương (rứa, ngụy, tề…) và dùng hai chữ cuối của hai câu ra đề để mở đầu bài
thơ, nội dung lại xem thường chức vị, học vấn của tri huyện Hồ Thiều. Nghe bài
thơ, ông ta vô cùng bái phục.
Còn chánh tổng Đức Hoà nhà giàu
có nhưng chữ nghĩa thì không bao nhiêu cũng bày đặt xướng hoạ văn thơ, vỗ ngực
ta đây là người hay chữ, lại thêm có tính thường ưa tới lui nhà các nhà bà goá
còn nhan sắc. Khi đến gặp, Bà Bang Nhãn tặng ngay một bài thơ ứng khẩu:
Chánh tổng Đức Hoà cất cớ thôi
Văn chương chữ nghĩa hỏi gì tôi
Năm vần tiện thiếp ra tay hoạ
Sợ nỗi anh hùng mút bút ngồi!
Những câu thơ như một cái tát vào mặt. Chánh tổng Đức Hoà
chẳng dám ngồi lâu.
Trong Hợp tuyển Văn học Việt Nam 1920 – 1945, tập V, quyển 1, Nhà
Xuất bản Văn học – Hà Nội năm 1997, có nói đến Bà Bang Nhãn và đã trích tuyển
hai bài thơ Đường của bà:
QUA ĐÀ NẴNG CẢM TÁC:
Rầm rầm ngựa hí với xe qua
“Nhượng địa” là đây có phải a?
Liếc mắt nhìn xem phong cảnh lạ
Ôm lòng chạnh tưởng nước non nhà.
Nào tay hồ thỉ đi đâu vắng
Nỡ để giang sơn cực lắm mà
Nghĩ đến người xưa thương đất cũ
Căm gan, riêng giận bác trời già!
VỊNH NÚI NGŨ HÀNH
Cảnh trí nào hơn
cảnh trí nầy
Bồng lai thôi cũng hẳn là đây
Núi chen sắc đá, màu phơi gấm
Chùa nức hơi hương khói lộn mây
Ngư phủ gác cần ngơ mặt nước
Tiều phu chống búa dựa lưng cây
Nhìn xem phong cảnh ưa lòng khách
Khen bấy thợ trời khéo đắp xây!
Thơ bà Bang Nhãn ảnh hưởng khá sâu sắc thơ của bà Huyện
Thanh Quan, dù hai người ở hai thế hệ khác nhau. Có lẽ do sự đồng cảm nhất định
của trái tim người phụ nữ hoài niệm về quá khứ huy hoàng của một thời vàng son:
Bà Huyện Thanh Quan nhớ về một vương triều Lê hưng thịnh khi đang phải sống với
một vương triều khác; còn Bà Bang Nhãn thì nhớ lại một thời lịch sử của dân tộc
được độc lập tự chủ trong khi phải nhìn quê hương đang là “nhượng địa” của thực
dân Pháp:
…Liếc mắt nhìn xem phong cảnh lạ
Ôm lòng chạnh tưởng nước non nhà!
Hoặc:
…Ngư phủ gác cần ngơ mặt nước
Tiều phu chống búa dựa lưng cây…
Những câu thơ của bà đã thể hiện
tinh thần yêu nước, yêu dân vô bờ bến.
Ngoài những bài thơ và giai
thoại về thơ của bà đã sưu tầm được, nhân dân vùng Đại Minh, Đại Đồng (Đại Lộc)
còn lưu truyền nhiều câu hò khoan, câu đối của bà.
Bà Bang Nhãn mất năm 1927, thọ
được 74 tuổi. Với tài năng, đức độ và tinh thần yêu nước thể hiện trong thơ văn
đã sưu tầm được, bà rất xứng đáng để thế hệ hôm nay và mai sau kính trọng. Bà
là một nữ sĩ tài hoa của quê hương Quảng Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét