Tản văn Nguyễn Hải Triều
"Dù
ai buồn khổ tới đâu
Trong ba ngày tết giải sầu làm vui..."
(Ca dao)
Khi những cơn mưa dai dẳng cuối mùa không còn làm tình làm tội
trên vùng đất sương sa, nắng bụi, mưa bùn của quê tôi. Khi ngọn gió tàn
đông se se lạnh bắt đầu trở giấc giao mùa. Thời vụ cũng đã xong xuôi, chồi xanh
mạ non trên đồng nhú đọng giọt sương buổi sớm. Màu nắng vàng ươm rực những tia
vui trong mắt người lớn khi đã tạm qua đi những lo toan đời thường cơm áo; rực
sáng trong mắt trẻ thơ hồn nhiên say mê tô vẽ khung trời thần tiên... tất cả
gợi lên bao háo hức về một mùa Xuân thắm tươi hoa trái, niềm vui, hạnh phúc
dâng tràn... Như một điều hiển nhiên, chẳng ai bảo ai, già trẻ gái trai quê
tôi, họ gác lại bao bận rộn nông tang cố hữu và bắt đầu nghĩ đến những công
việc tới, chuẩn bị cho đón tết Nguyên đán đầu năm.
Trong tâm thức họ, từ bao đời nay, đầu năm là sự hội tụ, giao thoa
giữa đất trời, con người với vạn vật, thần linh... nên rất thiêng liêng. Sự
cộng cảm lan toả trong từng ngóc ngách tâm hồn. Từ đó, việc tổ chức đón tết
trong mỗi gia đình tất thảy phải có sự chuẩn bị công phu và rất sớm.
Người ta quan niệm đầu năm cái gì cũng mới. Trước tiên là phải sửa
sang lại nhà cửa cho sạch sẽ, gọn gàng, ngăn nắp. Nhà gạch thì quét vôi mới.
Lau chùi đồ đạc, vật dụng trong nhà như bàn, ghế, tủ, giường...cho mới. Trang
trí lại bàn thờ. Đèn đồng, lư hương được đánh bóng sáng trưng. Mọi gia đình đều
lo mua sắm các vật dụng cần thiết phục vụ trong ba ngày tết. Lũ trẻ háo
hức khoe với nhau những bộ quần áo mới may. Nhà nào có trâu bò thì lo đi cắt cỏ
dự trữ để những ngày tết khỏi bận rộn việc chăn dắt. Không khí chuẩn bị đón tết
thật náo nhiệt, hân hoan.
Trước hết nói về hoa trái ngày mùa: Vốn là vùng đất thuần nông.
Cuộc sống lam lũ. Nhà cửa vườn tược đều theo một nếp quê với phương châm
"cây nhà lá vườn" tự cung tự cấp. Vườn ở quê tôi ngày ấy ngoài hoa
lợi quanh năm, trái chín đầy cành rau xanh mượt luống. Thường nhà ai cũng trồng
ít nhất một cây mai để làm cảnh và trang trí vào dịp tết. Có nhiều cây mai già
cội đến gần trăm tuổi mà vẫn cứ ra hoa đều đặn mỗi dịp xuân về. Người ta chăm
sóc những cây mai thật công phu; tính ngày suốt lá để đúng vào dịp tết thì hoa
nở rộ vàng. Ngày tết, nhà nào cũng có một cành mai trang trí đặt cạnh bàn tiếp
khách. Mai vàng trong nhà, trong vườn, hoa cải vàng trước sân, cúc vàng trong
các chậu sứ ở hiên nhà, ...cùng các loài hoa khác thi nhau đua nở thăng hoa
ngày tết ở quê tôi trong nắng vàng rực mùa xuân.
Trước đó nhiều tháng, nhà nào cũng chuẩn bị tự nuôi cho gia đình
mình một con heo cỏ, (còn gọi là heo lang hoặc heo ta). Nếu nghèo khó thì có
thể hai, ba, bốn nhà chung "đậu đùi" một con. Heo cỏ không to nhưng
thịt nhiều nạc và rất ngọt. Khi xào nấu thành các món ăn thơm phưng phức, ăn
miếng nhớ đời. Vào khoảng hai mươi tám tháng Chạp, ngay từ buổi sáng sớm, người
ta đã nghe rộ lên tiếng heo kêu eng éc vang động cả một góc quê. Rồi tiếng
người đi lại nói cười râm ran làng trên xóm dưới . Nhà nào cũng làm thịt heo để
cúng tất niên và rước ông bà. Đây là tập quán không thể thiếu ở quê tôi cho đến
bây giờ. Thịt heo làm xong, người ta lấy đầu và nọng heo đem luộc cùng với mỗi
bộ phận cơ thể con heo một miếng tượng trưng, sau đó cho lên mâm lễ cùng với
hoa, quả, cây trái để cúng tạ trời đất, thánh thần, thổ địa... đã phù hộ cho
gia đình được một năm mưa thuận gió hoà. Thịt heo còn lại được cắt rả ra từng
khổ lớn, ướp gia vị, sau đó lấy mo cau khô bó lại thật chặt đem treo đầu giàn
bếp, hoặc muối vào trong các hủ sành, cùng với các thức khác như cá, gà, vịt,
bánh trái để tiếp khách và ăn dần trong những ngày tết, có khi ra Giêng, Hai.
Vào sáng ngày hai mươi chín hoặc ba mươi tháng Chạp, mọi nhà đều
làm lễ cúng rước ông bà về cùng ăn tết trong gia đình. Đây là một tập quán thể
hiện sự tôn kính cội nguồn, xoá đi khoảng cách giữa người sống và người đã
khuất, thể hiện đạo hiếu nghĩa của cháu con, làm phong phú đời sống tâm linh.
Sau ba ngày tết, đến sáng hoặc chiều mồng bốn tháng Giêng, từng nhà mới làm mâm
cơm cúng đưa ông bà. Có nhiều gia đình tương đối khấm khá, người ta còn
"giữ chân" tổ tiên lại đến mồng chín hoặc mồng mười.
Ngoài việc chuẩn bị hoa trái, thịt, cá cho ngày tết; các món khác
như bánh, mứt cũng là thành phần hết sức quan trọng cho việc ăn tết ở quê tôi.
Từ những ngày cuối tháng Chạp, trong nhà, ngoài vườn, hoặc dọc trên các con
đường làng, người ta nhóm rất nhiều bếp lửa lưu động để rang nếp vỏ, nếp gạo
làm bánh nổ, bánh in... năm bảy nhà rang chung một bếp, mùi thơm lừng cả xóm cả
thôn, tiếng nổ lốp bốp nghe đến vui tai làm cho lòng người thêm rạo rực nghĩ về
những ngày tết ấm cúng.
Nhân đây, xin kể lại một chi tiết khá thú vị: không biết là từ bao
giờ, quê tôi lại có tập quán chưng cây chuối sứ con trên bàn thờ của những
người phụ nữ vừa qua đời và trên bàn thờ tổ tiên trong ngày tết như một loại
cây cảnh. Hồi còn nhỏ, có lần tôi thắc mắc thì được ông nội giải thích rằng cây
chuối sứ là biểu tượng của tình mẫu tử thiêng liêng. Chuối sứ khi trổ buồng,
bắp của nó cong quắp vào thân, như mắt của người mẹ nhìn xuống đàn con nhỏ.
Những giống chuối khác không có như vậy. Cây chuối sứ khi trồng chậm ra buồng
nhưng lại rất kinh tế: Chuối con, bắp chuối sau lúc đã trổ hết buồng và kể cả
trái chuối khi còn non thì được người ta xắt mỏng ăn sống với rau xanh; thân
chuối làm thức ăn cho heo; buồng chuối chín phơi khô dầm rượu chữa bệnh đau
lưng; lá chuối dùng để gói các loại bánh nếp trong ngày tết. Có phải đó cũng là
lý do mà từ lâu quê tôi người ta trồng rất nhiều chuối sứ?
Những ngày giáp tết, mọi người thay nhau đi đốn lá chuối sứ ngoài
vườn trải dọc các ngõ làng hay trong sân nhà. Cùng với lá dong khi phơi
héo đi cho khỏi rách để gói các loại bánh làm bằng gạo nếp như: bánh tét, bánh
rò, bánh ú, bánh ít, bánh tổ...thôi thì đủ các loại bánh, tuỳ theo khả năng
kinh tế của từng gia đình mà làm nhiều hay ít, nhưng nhà nào cũng có. Nhà này
gói bánh thì cả xóm cùng tập trung lại để gói cho nhanh, sau đó lại đi sang nhà
khác, cứ thế cho đến bao giờ xong hết cả xóm mới thôi. Người lớn ngồi gói bánh,
râm ran kể chuyện xóm làng, kinh nghiệm sống, thời vụ mùa màng, việc đón tết và
bao chuyện trên nguồn dưới biển... đôi khi ngẫu hứng, còn hát hò khoan đối đáp
nghe thật vui tai. Lũ trẻ con chúng tôi khi ấy cũng làm ra vẻ bận rộn không
kém. Nào rủ nhau lấy cọng chuối sứ ghép thành các khẩu súng liên thanh, cỡi
ngựa tàu cau chia phe đánh trận giả. Rồi lăng xăng vô nơi người lớn đang gói
bánh, bốc chỗ này tí nếp, chỗ kia chút nhưn đậu xanh, thịt mỡ để tự gói cho
mình những chiếc bánh ú, bánh rò... méo mó, ngộ nghĩnh với ý định là sẽ gởi vào
nồi bánh của mẹ nấu trong đêm giao thừa đón tết.
Tôi nhớ có những lần, trong đêm giao thừa, các thành viên trong gia
đình vây quanh bếp lửa hồng. Không gian yên ả, ấm cúng. Nồi bánh tết đang nấu
nước sôi sùng sục, toả nhiệt âm ấm làm giảm đi không khí se lạnh của đêm tàn
đông. Ông tôi ngồi trên bàn sắp xếp giấy mực để viết câu đối tết. Cha tôi sửa
sang lại bàn thờ, đốt hương đèn chuẩn bị đón giao thừa. Mẹ tôi và các em bên
nồi bánh. Tôi vừa mài mực cho ông, vừa lo để ý thử mấy chiếc bánh ú mình tự gói
khi chiều gởi mẹ cho vào nồi đã chín chưa? Không gian đầm ấm đến lạ kỳ. Rồi
thời khắc giao thừa đến. Mọi người vào bàn thờ thắp hương khấn vái ông bà, giải
bày những ao ước đầu năm, mong được phù hộ cho khoẻ mạnh, bình yên. Anh em
chúng tôi đến mừng tuổi ông nội, mừng tuổi cha mẹ và được nhận những bao tiền
mới lì xì. Mọi người nói với nhau bằng những lời chúc tốt đẹp.
Quê tôi cho đến bây giờ vẫn còn tục lệ xông đất. Nhiều gia đình vẫn
còn tin rằng người nào hợp tuổi vào nhà sáng mồng một thì cả năm gia đình ấy sẽ
làm ăn phát đạt. Còn nếu người vào nhà đầu tiên nặng vía thì năm ấy họ làm ăn
chẳng ra chi. Mẹ dặn chúng tôi không được đến sớm nhà hàng xóm cũng vì quan
niệm ấy.
Tờ mờ sáng mồng một, việc trước tiên là nhà nào cũng có nhiều người
vào núi để thắp hương phần mộ ông bà. Dọc những nghĩa trang ven đồi đông vui và
rực rỡ sắc màu tết nhứt. Có người ở tận dưới phố cũng chạy xe máy chở con cái
về quê viếng mộ ông bà. Tiếng gọi nhau, cười nói, chào hỏi, chúc tụng, rôm rả,
náo nhiệt thật vui vẻ. Sau đó thì lũ lượt kéo nhau về làng để thăm viếng, chúc
tết xóm giềng, bà con họ hàng và tham gia các trò vui chơi ngày tết.
Năm nào cũng vậy, cứ đến tết là làng tôi tổ chức bài chòi ở sân nhà
Hội. Ai cũng ham đến chơi để nghe ông hiệu hô hát, nhiều khi chơi cả ngày mà
không biết chán, nên từ xưa đã có câu ca: "Rủ nhau xem hát bài chòi, để
cho con khóc đến lòi rún ra...".
Không khí nhộn nhịp kéo dài suốt từ mồng một đến mồng ba, mồng bốn
tết. Rồi đến cả mồng chín, mồng mười bằng những cuộc đua ghe, xem hát bội, hát
dân ca hay các giải thể thao, văn nghệ nồng ấm tình làng nghĩa xóm; trước khi
bắt đầu vào những công việc mùa màng nặng nhọc của một năm tiếp theo.
Đã lâu rồi. Có lẽ từ khi đời sống người dân ở quê tôi được khấm khá
hơn lên nhờ xu thế đô thị hóa nông thôn. Đường bê tông thẳng băng, láng bóng từ
làng trên ngõ dưới. Nhà xây nhiều tầng, xe đời mới xênh xang...Mỗi lần tết đến,
nếu muốn bánh trái thịt thà... chỉ cần bỏ tiền ra mua ở chợ là bao nhiêu cũng
có. Dần dần người ta quên đi cái nếp quê đầm ấm, dân dã thấm đẫm tình làng
nghĩa xóm xưa kia mỗi bận xuân về.
Đâu rồi những mùa tết cũ?!.
Cuối
đông 2009.
N.H.T.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét