Thứ Ba, 4 tháng 2, 2014

BẾN QUÊ CHƯƠM BỔI MỘT THỜI…

             Tạp bút của Nguyễn Hải Triều

            Ngày ấy, hễ mỗi lần đến tiết tháng mười, tháng mười một, sông quê tôi qua mùa bão gió, lũ lụt; con nước trở lại trong kính như gương soi. Cá tôm trên nguồn theo lụt trôi về trú ngụ trên đồng, dọc các triền sông,… cũng là lúc nhiều gia đình trong xóm, rồi bà con làm nghề cá ở vạn chài đua nhau đi chặt các tượt cây trên núi chở về làm chuồng chươm, chuồng bổi để bắt tôm, cá mưu sinh…
            1.
            Lần nào về quê tôi cũng rủ vài thằng bạn chí cốt trong làng ra thăm bến cũ. Cái bến sông một thời gắn bó với tuổi hoa niên thơ dại nhưng cũng rất gian khó chẳng thể phai mờ trong ký ức của mỗi chúng tôi.
            Nhiều năm về trước, sông quê tôi luôn xanh như dãi lụa. Mùa nắng thì mát rượi dòng trong; mùa mưa luôn đầy ắp nước. Sông tháng ngày chở phù sa về bồi đắp cho cánh đồng làng, để lúa thơm mẫy hạt, cho bắp dưa xanh tốt, cây trái sum suê. Thời ấy, nơi bến sông làng tôi lúc nào cũng ồn ả, náo nhiệt, vui như hội. Người ta gánh nước, giặt giũ, tắm mát; ghe thuyền tấp nập vào ra nườm nượp  lâm sản, hàng hóa, ngược xuôi lên rừng xuống biển … chẳng lúc nào thiếu vắng tiếng trẻ nô đùa, tiếng người cười nói râm rang từ mờ sáng đến tối mịt; kể cả những đêm trăng sáng, vui ơi là vui!
            Bến sông đã gắn bó tuổi thơ tôi cùng chúng bạn trang lứa với biết bao nhiêu kỷ niệm khó quên. Ngoài việc tắm mát, ngụp lặn thỏa thuê mỗi ngày, chia phe đánh trận, đu người trên mấy bờ xe nước của làng, rồi lao người phóng xuống dòng chảy trong đư mà bơi qua sông với đủ trò tinh nghịch của tuổi ấu thơ, kể cả việc rủ nhau  hái trộm dưa hồng bên cồn Lộc Vĩnh để chiều về ăn những trận đòn nhớ đời, … nhưng khó quên nhất vẫn là những lần bắt cá tôm vào mùa chươm, bổi trên bến sông quê tôi.
            Ngày ấy, hễ mỗi lần đến tiết tháng mười, tháng mười một, sông quê tôi qua mùa bão gió, lũ lụt; con nước trở lại trong kính như gương soi. Cá tôm trên nguồn theo lụt trôi về trú ngụ trên đồng, dọc các triền sông, cũng là lúc nhiều gia đình trong xóm, rồi bà con làm nghề cá ở vạn chài đua nhau đi chặt các tượt cây trên núi chở về làm chuồng chươm, chuồng bổi để bắt cá, tôm mưu sinh.
            Để có được những chuồng chươm vừa ý, nhiều khi không chỉ một nhà mà người ta liên kết hai ba hộ gia đình. Từng buổi sáng mo cơm, ống bương nước cùng hai ba lao động chèo ghe lên núi Bãi Trầu, Đá Trải, có khi lên tận sông Bung, sông Cái vào một ngách rừng nào đó, cắm sào cho ghe đậu bên mép sông, uống một hơi nước chè xanh đậm đặc lấy sức để vào núi. Người ta chọn những tượt cây bời lời, cây rang, cây dẻ… to bằng cổ tay, cổ chân, có nhiều chà, nhánh chắc chắn, (loại cây lâu mục ải khi ngâm trong nước) để làm chuồng chươm. Họ đốn cây kéo ra phơi dọc các bãi sông cho rụng hết lá. Để chừng năm bảy ngày, lưng nửa tháng rồi chở về chất đầy ở những bến sông dọc làng.
            Tìm vị trí để cắm chươm cũng là một điều cần đòi hỏi kinh nghiệm; phải chọn nơi gần bờ nhưng cũng phải là một vùng nước vịnh bên dòng chảy của sông, ở độ sâu khoảng hơn một mét, người ta cho đó là nơi cá tôm thường hay trú ngụ. và chuồng chươm phải tương đối xa nơi bến nước, nơi có người thường lên xuống tắm giặt, ồn ả, vì gần nơi đó sẽ “động”, cá tôm không dám quây quần. Những cành chươm được cắm xuôi theo dòng chảy, sao cho cây nọ cách cây kia từ một đến hai tấc, thành một lùm kín dưới nước có diện tích chừng vài ba chục mét vuông. Thấy lùm cây rậm rạp, kín đáo, hang hốc, các loài cá sông, tôm, cua từng đàn lớn nhỏ thi nhau vào trú ẩn, mỗi ngày một nhiều. Khi chuồng chươm được cắm hoàn tất, cứ đến khoảng một tuần thì người ta dỡ chươm bắt cá một lần. Một lần thu hoạch là một lần thú vị và cũng không kém công phu. Để bắt được cá từ chươm, họ bện những tấm đăng bằng tre trông như những miếng sạp giường. Tre bện đăng là loại tre gốc vừa già vừa chắc được chẻ chuốt công phu thành từng que vuông vức to bằng ngón tay út có chiều dài cở 1,8 mét. Sau đó được bện liên kết với nhau bằng các sợi ni lon bền chắc, không thấm nước, khó mục ải. Khi ra bắt cá, đăng được chắn quanh chuồng chườm ngăn không cho cá tôm thoát ra trước khi lội vào nhổ tất cả các nhánh cây bỏ ra ngoài để bắt cá. Người ta dùng tất cả các phương tiện hiệu quả nhất như: nơm, úp, trủ kéo, lưới… để vây bắt cá tôm sau khi đã dọn sạch những cành chươm trong vòng đăng được vây sẵn và càng lúc càng siết lại. Mỗi lần thu hoạch như vậy, người bắt thì ít nhưng người xem thì nhiều. Được một con cá to, những nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt cháy nắng. Tiếng la hét phấn khích, náo nhiệt cả bến sông! Ôi, một thời quê kiểng.
            Ngoài chuyện cắm chươm, thì việc làm chuồng bổi để bắt tôm cũng lý thú không kém. Nếu làm chươm bắt cá là việc nặng nhọc, chỉ người lớn mới làm được thì làm những chuồng bổi hợp với lũ trẻ chúng tôi hơn. Tranh thủ những ngày nghỉ học, cả bọn chúng tôi rủ nhau xách rựa đi dọc rìa làng, nơi có những bụi duối, bụi nổ mọc hoang ở bên triền sông, ngoài Mả Đống. Chúng tôi rong những nhánh duối, nhánh nổ, nhánh tre gai,…thành từng đoạn dài khoảng 40 phân rồi bó lại thành bó đem về để làm chuồng bổi. Duối, nổ là thứ cây có nhiều nhánh con, bó lại từng bó  trông có nhiều hang hốc kín đáo tôm cá rất thích ở. Người ta còn cho rằng vỏ cây nổ, cây duối còn là món ăn khoái khẩu của cá tôm nữa kia. Mỗi chuồng bổi lớn nhỏ tùy thuộc vào số lượng; ít thì năm bảy bó, còn nhiều có chuồng đến vài chục bó bổi. Khác với chươm phải đóng nơi nước vịnh, đặt chuồng bổi phải chọn nơi nước chảy, gần bờ; được đóng cọc chung quanh để giữ cho bổi khỏi trôi. Chuồng bổi là nơi ưa ở của tôm và cá lấu, một loại cá sông da trơn và có thân dài như lươn. Khi sở hữu được chuồng bổi, thì cứ hai ba ngày, người ta đi xúc bổi một lần. Để bắt được cá tôm trong chuồng bổi, cần  có một chiếc rổ xúc bằng tre, đường kính khoảng 80 phân, nan dày để cá tôm không chui qua được. Khi xúc một bó bổi lên khỏi mặt nước, những con tôm to ngang ngón tay người lớn gõ càng lộp cộp, búng lách tách nghe đến vui tai,  những con cá lấu mình dài, da trơn ngoằn ngoèo bò trường quanh rỗ bổi trông đã con mắt. Mỗi lần xúc bổi, bắt được cả vài ba ký tôm cá. Thời ấy, có được khoảng thực phẩm như vậy để cải thiện bữa ăn trong gia đình thật là điều quý giá vô cùng giữa cuộc sống khốn khó đời thường. Nhưng với chúng tôi, niềm vui không phải làm được nhiều cá tôm mà là được quẫy đạp dọc ngang trên bến quê nhà giữa dòng trong của con sông yêu thương bốn mùa tươi mát với biết bao nhiêu kỷ niệm ngọt ngào.
            2.
            Những năm gần đây, sông quê tôi không còn xanh nữa. Con đường ra bến bây chừ lu lấp những lùm cây dại, thưa thớt dấu chân người. Mấy hàng tre gai rậm rạp thiếu người chăm sóc đổ ngang đổ dọc che khuất lối mòn qua lại. Bờ sông lạnh lẻo, hoang tàn ngó đến chạnh lòng. Có phải cuộc sống hiện đại bây giờ đã làm cho con người quay lưng lại với sông chăng? Có thể kể ra đây, nào những phòng tắm đầy đủ tiện nghi; những bể bơi sang trọng, quý phái; những giếng nước trong vắt, ngọt mát, quyến rũ;  hệ thống nguồn nước sinh hoạt được cung cấp bởi nhà máy trải dài từ phố xá đến làng mạc, phù hợp với nếp sống đủ đầy…Ngược lại, sông thì cứ cạn dòng, mỗi ngày mỗi khô héo. Từng đoạn, từng đoạn giữa đôi bờ lô nhô những cồn đất khô khốc, lở loét, đục ngầu; dòng chảy bị ngăn lại thành hồ chứa nước thủy điện, thành những bãi khai thác vàng sa khoáng đầy chất xi-a-nua độc hại, bệnh hoạn, chết người. Có thương cho lắm cũng đành thôi chứ ai dám ôm ấp, ngụp lặn, bơi tắm giữa một dòng nước luôn bị ô nhiểm bốn mùa.
            Sông bây giờ như một con người đang thương tích trầm kha nằm rên rỉ chờ chết thì làm sao tìm lại được những bến quê chươm bổi một thời?

                                                        Tháng 10/2013N.H.T

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét