Tạp
bút của Nguyễn Hải Triều
Ngày ấy, hễ mỗi lần đến tiết tháng
mười, tháng mười một, sông quê tôi qua mùa bão gió, lũ lụt; con nước trở lại
trong kính như gương soi. Cá tôm trên nguồn theo lụt trôi về trú ngụ trên đồng,
dọc các triền sông,… cũng là lúc nhiều gia đình trong xóm, rồi bà con làm nghề
cá ở vạn chài đua nhau đi chặt các tượt cây trên núi chở về làm chuồng chươm,
chuồng bổi để bắt tôm, cá mưu sinh…
1.
Lần nào về quê tôi cũng rủ vài thằng
bạn chí cốt trong làng ra thăm bến cũ. Cái bến sông một thời gắn bó với tuổi
hoa niên thơ dại nhưng cũng rất gian khó chẳng thể phai mờ trong ký ức của mỗi
chúng tôi.
Nhiều năm về trước, sông quê tôi
luôn xanh như dãi lụa. Mùa nắng thì mát rượi dòng trong; mùa mưa luôn đầy ắp
nước. Sông tháng ngày chở phù sa về bồi đắp cho cánh đồng làng, để lúa thơm mẫy
hạt, cho bắp dưa xanh tốt, cây trái sum suê. Thời ấy, nơi bến sông làng tôi lúc
nào cũng ồn ả, náo nhiệt, vui như hội. Người ta gánh nước, giặt giũ, tắm mát;
ghe thuyền tấp nập vào ra nườm nượp lâm sản, hàng hóa, ngược xuôi lên rừng
xuống biển … chẳng lúc nào thiếu vắng tiếng trẻ nô đùa, tiếng người cười nói
râm rang từ mờ sáng đến tối mịt; kể cả những đêm trăng sáng, vui ơi là vui!
Bến sông đã gắn bó tuổi thơ tôi cùng
chúng bạn trang lứa với biết bao nhiêu kỷ niệm khó quên. Ngoài việc tắm mát,
ngụp lặn thỏa thuê mỗi ngày, chia phe đánh trận, đu người trên mấy bờ xe nước
của làng, rồi lao người phóng xuống dòng chảy trong đư mà bơi qua sông với đủ
trò tinh nghịch của tuổi ấu thơ, kể cả việc rủ nhau hái trộm dưa hồng bên
cồn Lộc Vĩnh để chiều về ăn những trận đòn nhớ đời, … nhưng khó quên nhất vẫn
là những lần bắt cá tôm vào mùa chươm, bổi trên bến sông quê tôi.
Ngày ấy, hễ mỗi lần đến tiết tháng
mười, tháng mười một, sông quê tôi qua mùa bão gió, lũ lụt; con nước trở lại
trong kính như gương soi. Cá tôm trên nguồn theo lụt trôi về trú ngụ trên đồng,
dọc các triền sông, cũng là lúc nhiều gia đình trong xóm, rồi bà con làm nghề
cá ở vạn chài đua nhau đi chặt các tượt cây trên núi chở về làm chuồng chươm,
chuồng bổi để bắt cá, tôm mưu sinh.
Để có được những chuồng chươm vừa ý,
nhiều khi không chỉ một nhà mà người ta liên kết hai ba hộ gia đình. Từng buổi
sáng mo cơm, ống bương nước cùng hai ba lao động chèo ghe lên núi Bãi Trầu, Đá
Trải, có khi lên tận sông Bung, sông Cái vào một ngách rừng nào đó, cắm sào cho
ghe đậu bên mép sông, uống một hơi nước chè xanh đậm đặc lấy sức để vào núi.
Người ta chọn những tượt cây bời lời, cây rang, cây dẻ… to bằng cổ tay, cổ
chân, có nhiều chà, nhánh chắc chắn, (loại cây lâu mục ải khi ngâm trong nước)
để làm chuồng chươm. Họ đốn cây kéo ra phơi dọc các bãi sông cho rụng hết lá.
Để chừng năm bảy ngày, lưng nửa tháng rồi chở về chất đầy ở những bến sông dọc
làng.
Tìm vị trí để cắm chươm cũng là một
điều cần đòi hỏi kinh nghiệm; phải chọn nơi gần bờ nhưng cũng phải là một vùng
nước vịnh bên dòng chảy của sông, ở độ sâu khoảng hơn một mét, người ta cho đó
là nơi cá tôm thường hay trú ngụ. và chuồng chươm phải tương đối xa nơi bến
nước, nơi có người thường lên xuống tắm giặt, ồn ả, vì gần nơi đó sẽ “động”, cá
tôm không dám quây quần. Những cành chươm được cắm xuôi theo dòng chảy, sao cho
cây nọ cách cây kia từ một đến hai tấc, thành một lùm kín dưới nước có diện
tích chừng vài ba chục mét vuông. Thấy lùm cây rậm rạp, kín đáo, hang hốc, các
loài cá sông, tôm, cua từng đàn lớn nhỏ thi nhau vào trú ẩn, mỗi ngày một
nhiều. Khi chuồng chươm được cắm hoàn tất, cứ đến khoảng một tuần thì người ta
dỡ chươm bắt cá một lần. Một lần thu hoạch là một lần thú vị và cũng không kém
công phu. Để bắt được cá từ chươm, họ bện những tấm đăng bằng tre trông như
những miếng sạp giường. Tre bện đăng là loại tre gốc vừa già vừa chắc được chẻ
chuốt công phu thành từng que vuông vức to bằng ngón tay út có chiều dài cở 1,8
mét. Sau đó được bện liên kết với nhau bằng các sợi ni lon bền chắc, không thấm
nước, khó mục ải. Khi ra bắt cá, đăng được chắn quanh chuồng chườm ngăn không
cho cá tôm thoát ra trước khi lội vào nhổ tất cả các nhánh cây bỏ ra ngoài để
bắt cá. Người ta dùng tất cả các phương tiện hiệu quả nhất như: nơm, úp, trủ
kéo, lưới… để vây bắt cá tôm sau khi đã dọn sạch những cành chươm trong vòng
đăng được vây sẵn và càng lúc càng siết lại. Mỗi lần thu hoạch như vậy, người
bắt thì ít nhưng người xem thì nhiều. Được một con cá to, những nụ cười rạng rỡ
trên khuôn mặt cháy nắng. Tiếng la hét phấn khích, náo nhiệt cả bến sông! Ôi,
một thời quê kiểng.
Ngoài chuyện cắm chươm, thì việc làm
chuồng bổi để bắt tôm cũng lý thú không kém. Nếu làm chươm bắt cá là việc nặng
nhọc, chỉ người lớn mới làm được thì làm những chuồng bổi hợp với lũ trẻ chúng
tôi hơn. Tranh thủ những ngày nghỉ học, cả bọn chúng tôi rủ nhau xách rựa đi
dọc rìa làng, nơi có những bụi duối, bụi nổ mọc hoang ở bên triền sông, ngoài
Mả Đống. Chúng tôi rong những nhánh duối, nhánh nổ, nhánh tre gai,…thành từng
đoạn dài khoảng 40 phân rồi bó lại thành bó đem về để làm chuồng bổi. Duối, nổ
là thứ cây có nhiều nhánh con, bó lại từng bó trông có nhiều hang hốc kín
đáo tôm cá rất thích ở. Người ta còn cho rằng vỏ cây nổ, cây duối còn là món ăn
khoái khẩu của cá tôm nữa kia. Mỗi chuồng bổi lớn nhỏ tùy thuộc vào số lượng;
ít thì năm bảy bó, còn nhiều có chuồng đến vài chục bó bổi. Khác với chươm phải
đóng nơi nước vịnh, đặt chuồng bổi phải chọn nơi nước chảy, gần bờ; được đóng
cọc chung quanh để giữ cho bổi khỏi trôi. Chuồng bổi là nơi ưa ở của tôm và cá
lấu, một loại cá sông da trơn và có thân dài như lươn. Khi sở hữu được chuồng
bổi, thì cứ hai ba ngày, người ta đi xúc bổi một lần. Để bắt được cá tôm trong
chuồng bổi, cần có một chiếc rổ xúc bằng tre, đường kính khoảng 80 phân,
nan dày để cá tôm không chui qua được. Khi xúc một bó bổi lên khỏi mặt nước,
những con tôm to ngang ngón tay người lớn gõ càng lộp cộp, búng lách tách nghe
đến vui tai, những con cá lấu mình dài, da trơn ngoằn ngoèo bò trường
quanh rỗ bổi trông đã con mắt. Mỗi lần xúc bổi, bắt được cả vài ba ký tôm cá.
Thời ấy, có được khoảng thực phẩm như vậy để cải thiện bữa ăn trong gia đình
thật là điều quý giá vô cùng giữa cuộc sống khốn khó đời thường. Nhưng với
chúng tôi, niềm vui không phải làm được nhiều cá tôm mà là được quẫy đạp dọc
ngang trên bến quê nhà giữa dòng trong của con sông yêu thương bốn mùa tươi mát
với biết bao nhiêu kỷ niệm ngọt ngào.
2.
Những năm gần đây, sông quê tôi
không còn xanh nữa. Con đường ra bến bây chừ lu lấp những lùm cây dại, thưa
thớt dấu chân người. Mấy hàng tre gai rậm rạp thiếu người chăm sóc đổ ngang đổ
dọc che khuất lối mòn qua lại. Bờ sông lạnh lẻo, hoang tàn ngó đến chạnh lòng.
Có phải cuộc sống hiện đại bây giờ đã làm cho con người quay lưng lại với sông
chăng? Có thể kể ra đây, nào những phòng tắm đầy đủ tiện nghi; những bể bơi
sang trọng, quý phái; những giếng nước trong vắt, ngọt mát, quyến rũ; hệ
thống nguồn nước sinh hoạt được cung cấp bởi nhà máy trải dài từ phố xá đến
làng mạc, phù hợp với nếp sống đủ đầy…Ngược lại, sông thì cứ cạn dòng, mỗi ngày
mỗi khô héo. Từng đoạn, từng đoạn giữa đôi bờ lô nhô những cồn đất khô khốc, lở
loét, đục ngầu; dòng chảy bị ngăn lại thành hồ chứa nước thủy điện, thành những
bãi khai thác vàng sa khoáng đầy chất xi-a-nua độc hại, bệnh hoạn, chết người.
Có thương cho lắm cũng đành thôi chứ ai dám ôm ấp, ngụp lặn, bơi tắm giữa một
dòng nước luôn bị ô nhiểm bốn mùa.
Sông bây giờ như một con người đang
thương tích trầm kha nằm rên rỉ chờ chết thì làm sao tìm lại được những bến quê
chươm bổi một thời?
Tháng 10/2013 - N.H.T
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét