Truyện
ngắn Nguyễn Hải Triều
Cụ Ba Thuyết sống gần trăm tuổi bảo
rằng, ngày còn nhỏ từng nghe kể lại, khi ông nội cụ ở tuổi thiếu niên cũng đã
thấy ngôi miếu và cây đa ấy rồi. Ông nội còn nói thời chăn trâu cắt cỏ đã từng
vào ngủ trưa trong ngôi miếu ấy nữa kia.
Người ta kể rằng, cách đây hơn trăm
năm, một hôm bỗng dưng xuất hiện người đàn ông tên Khảnh lang bạt từ đâu tới;
không gốc tích, không cửa nhà , vợ con. Hắn ta lấy ngôi miếu làm nơi tá túc.
Tuổi trạc ngoài ba mươi, vai u thịt bắp, dáng vẻ phong trần, ít nói nên chẳng
ai hiểu kỹ về con người này. Buổi sáng từ ngôi miếu Khảnh ra làng. Ai nhờ chi
làm nấy: cuốc ruộng, lợp nhà, xay lúa, đốn cây…Làng xóm trả công bao nhiêu hắn
cũng chẳng nề hà thua thiệt, không mất lòng ai. Công việc nặng nhọc, Khảnh coi
như chuyện chẳng khó khăn tí nào. Hết một ngày, ghé ra quán gió cuối làng của
cô Ba Trừng, một người đàn bà quá lứa không chồng làm vài xị, rồi băng đồng đi
về ngôi miếu đánh một giấc đến sáng. Có hôm trời nắng chang chang Khảnh cởi
trần đào mương thủy lợi. Người ta thấy trên bắp tay hắn có hình xăm con rồng
xanh thật to trông dữ tợn. Dân trong vùng xầm xì, thêu dệt về xuất xứ của con
người này, nhưng chẳng có lời nào nghe lọt tai. Cho đến một bữa, từ miệng của
cô Ba Trừng, mọi người mới biết mang máng về gốc tích của hắn. Theo cô Ba
(Khảnh kể ra thân phận mình trong một lần say ở quán), rằng: Hắn cũng con nhà
tử tế, giàu có ở miệt xuôi. Cha làm một chức quan to trong huyện đường. Dù có
chút sáng dạ, nhưng tính tình ham chơi, ỷ lại vào người cha và gia đình có
nhiều tiền của, hắn thường xuyên bỏ bê học hành, la cà với đám bạn bè bất hảo;
tụ tập thành nhóm giang hồ quậy phá, ăn nhậu, cờ bạc, đánh lộn, đâm chém… làm
thú vui. Nhờ có sức vóc, liều mạng và thích làm gương nên đàn em phục tùng răm
rắp. Nghe đâu lên tới chức đại ca của nhóm giang hồ.. Nhiều lần quan huyện sai
người bắt giam nhưng nhờ uy thế cha mình, Khảnh đều lọt lưới pháp luật. Hành vi
bất trị, côn đồ của hắn làm người cha nhục nhã và nổi giân. Một lần do không
kiềm chế trước lời la mắng, hắn vung tay múa chân làm cha hắn bị thương. Họ
hàng, làng xóm phẫn nộ lên án. Còn sót chút sĩ diện trong người, nhận ra hành
động của mình bất hiếu, vô đạo; hắn bỏ nhà đi biệt xứ, quyết tâm làm lại cuộc
đời và hắn trôi dạt đến đây.
Vào thời điểm ấy, vùng đất Phú Lộc
nổi lên nhân vật Chánh Hiển là chánh tổng đương quyền. Vốn là dân ngụ cư, từ
đời ông nội đến đời cha chỉ là người “quơ bổi thổi trâu” trong làng. Tự ái cho
thành phần xuất thân hẩm hiu ở một xã hội nặng nề phân biệt giai cấp, nên ông
ta chí khú học hành, quyết tâm đổi đời. Nhưng do tư chất tối dạ, học trước quên
sau, chẳng vào đâu cả. Tuy “văn dốt-võ dát”, bù lại được cái miệng lưỡi. Chánh
Hiển bề ngoài như người của công việc, miệng nói tay làm nên dễ ma mị người
đời. Tính lại thích nói nhiều, luôn ra vẻ quan trọng mọi vấn đề từ lớn chí nhỏ.
Làng xóm nhầm tưởng ông ta là kẻ thông thái, uyên bác và đặt cho biệt danh là
“ngài quan trọng”. Thấy chánh tổng xuất hiện, họ kháo nhau rằng: “Muốn cho lão
chết thì không cần gươm dao chi cả; chỉ cần lấy vải bịt miệng lão khoảng
một canh giờ thôi, không nói được là lão chết ngay!”. Chánh Hiển luôn tranh thủ
lấy lòng các quan trên bằng sự luồn cúi, lo lót, biếu xén để chạy chức quyền;
theo đường ấy, từ một thủ ấn (người giữ tráp ấn chỉ) của làng, lão nhanh chóng
phất lên làm chánh tổng chẳng ai ngờ tới.
Bà vợ cưng của Chánh Hiển đang bình
thường, bỗng trở chứng nói lãng. Ngồi một mình lầm rầm trong miệng như người
cõi trên. Chạy chữa nhiều nơi mà bịnh tình không thuyên giảm. Làng xóm mách
rằng bà Chúa Xứ linh thiêng, nên lão bèn vào miếu cầu bà xin thuốc chữa bệnh
cho vợ. Chánh Hiển nhờ Khảnh ngồi xác đồng. Thế là hai người quen nhau. Thời
buổi ấy, vai vế trong vùng như Chánh Hiển mà kết giao với Khảnh, một kẻ
tứ cố vô thân thì cũng hơi lạ, mà lại rất thắm thiết nữa chứ. Một chức quyền,
một lưu linh lạc địa thành một cặp bài trùng. Khảnh đến nhà Chánh Hiển chăm sóc
vườn tược, cày cuốc ruộng nương, phục vụ du hí cho ngài chánh tổng thích ham
vui. Bà vợ của Chánh Hiển thấy chồng đem về một anh lực điền siêng làm, chạy
việc mà trong lòng phấn khích. Nhìn Khảnh với thân hình vạm vỡ, đôi mắt hồi
xuân của bà nhiều khi cũng lúng la lúng liếng thèm thuồng. Chánh tổng đi đâu
Khảnh đều theo dắt ngựa. Có hôm hai thầy trò đang chén thù chén tạc ở quán cô
Ba Trừng. Thấy chủ quán tuy quá lứa cũng còn nước non. Động lòng “trắc ẩn”,
chánh tổng ướm lời tán tĩnh. Nhìn ông chủ ve vãn người tình của mình, Khảnh giả
lơ, “ngậm bồ hòn làm ngọt” mà trong lòng cứ ấm ức. Bỗng có người mách tin bà vợ
già đi tìm. Tránh mặt “sư tử Hà Đông”, Chánh Hiển phóng qua hàng rào sau
vườn ẩn nấp, không may vấp phải hòn đá bị sái cổ chân nằm một chỗ. Giữ thể diện
cho thầy, Khảnh tung tin rằng chánh tổng đi công việc, do sơ ý bị ngựa đá., may
không trúng chỗ hiểm mà chỉ trầy dái sái xương. Các ông trùm, hương, lý trong
vùng nghe vậy, đua nhau mang quà cáp đến thăm hỏi để tranh thủ lấy lòng. Sự
việc diễn ra, ngài chánh vừa khen Khảnh kín tiếng; vừa cười thầm trong bụng,
miệng lẩm bẩm: “Trong cái rủi có cái may! Hớ hớ…!”
Vào một buổi chiều, sau khi cầu cơ
hốt thuốc bà cho vợ xong, hai thầy trò chén thù chén tạc trong ngôi miếu hoang.
Rượu vào lời ra, Chánh Hiển vỗ vai thằng đệ tử hứa hẹn: “Bắt đầu từ ngày mai
con dọn về ở với ông. Đừng tá túc trong ngôi miếu hoang ni mà lạnh lẽo, cô độc.
Giỏi việc, mai mốt ông xuống huyện đường thưa với quan trên, ông làm chánh
tổng, đề bạt cho con làm phó tổng, sung sướng một đời con hỉ?”. Khảnh trố đôi
mắt trắng dã nuột ừng ực từng lời hứa của thầy như nuốt rượu. Bất chợt hắn nói:
“ Con cảm ơn ông! Ông phúc đức mấy đời cho con nhờ, con kết cỏ ngậm vành!”. Rồi
xúc động ôm mặt khóc hu hu như đứa trẻ. Nước mắt, nước mũi, nước rượu tràn lan
ra cả nền ngôi miếu hoang. Lúc sau, không biết nghĩ răng, tự nhiên hắn nói
tiếp: “ Ông là cây đa, còn con là cái miếu. Cái miếu cần cây đa, cây đa cần cái
miếu! Ông hỉ?”.Nói xong hắn đứng dậy cụng be sành với thầy hắn nghe
cốc…cốc, rồi hít một hơi cạn sạch.
Nửa đêm hôm đó, sau khi uống hết hủ
rượu gạo nguyên chất lấy ở quán cô Ba, Chánh Hiển chệnh choạng đi ra sân miếu
mở dây cương quất ngựa băng đồng về với vợ. Khảnh còn lại một mình. Trong cơn
say, hắn chìm nghỉm vào tâm trạng cô độc. Hắn nhớ lại lời của Chánh Hiển hứa
khi nãy; Hắn nhớ lại câu ví cây đa và cái miếu của hắn. Bất giác hắn cười sặc
sụa như một gã điên; tiếng cười của hắn xoáy vào đêm tối giữa đồng không mông
quạnh nghe mà rởn tóc gáy. Rồi trong phút giây thất thần ấy, bản chất giang hồ
du côn trong con người hắn trỗi dậy. Hắn tự hỏi: “Cái miếu cần cây đa hay cây
đa cần cái miếu? Nếu thử đốt cái miếu thì cây đa sẽ thế nào nhỉ?”. Ý nghĩ
vừa thoáng qua và hắn hành động ngay. Phút chốc ngọn lửa bùng lên dữ dội sáng
rực một góc trời.
Dân làng nửa đêm tỉnh giấc hốt
hoảng. Họ gióng trống mõ báo động rồi kéo nhau băng đồng chạy đi trị hỏa nhưng không
kịp. Khi đến nơi thì ngôi miếu cổ chỉ còn lại đống tro tàn. Cây đa bị héo lá ủ
rủ, thân loang lỗ các vết cháy sém, ứa ra những dòng nhựa bầm tím, thê lương.
Tung tích của Khảnh cũng chẳng thấy đâu. Có người nói hắn đã chết thiêu cùng
với ngôi miếu; lại có kẻ cho là hắn đã thoát ra được và trốn về quê cũ.
Cô Ba Trừng dỡ quán, bỏ làng đi biệt
tích. Người ta bảo cô về xứ thằng Khảnh để tìm hắn.
Hai tháng sau, trong một trận mưa
giông, cây đa bị sét đánh chẻ đôi thân rồi chết khô. Riêng chánh tổng Hiển, vì không
làm được việc, lại để thất thoát công quỹ, chán chường lâm vào cờ bạc, gia sản
tiêu tán. Bị quan trên cách chức về làm dân thường.
Cuối đông 2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét