Nguyễn Hải Triều
(Chiều chiều mượn ngựa ông Đô
Mượn ba chú lính đưa cô về nguồn…)
Ca dao
Quê tôi, một vùng
đất phía tây của huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Nơi thượng nguồn của dòng Vu
Gia đầy ắp những giai thoại kể về cha ông thời đi mở đất. Những câu chuyện tươi
rói sức sống về một giai đoạn lịch sử nơi đây từng là phên giậu, cương thổ Đại
Việt; trong đó có nhiều giai thoại nằm sâu trong tầng văn hóa dân gian, kể về
cuộc hành trình gian khó của vị Chúa cuối cùng ở Đàng Trong là Định Vương
Nguyễn Phúc Thuần và con trai, công tử Nguyễn Phúc Ánh, những ngày “nằm gai nếm
mật” trốn chạy quân Tây Sơn để mưu đồ nghiệp bá cho vương triều của mình.
Khi chiếu chỉ của
vua Thành Thái triều Nguyễn niên hiệu thứ 11 (1899), cho phép lấy một phần đất
đai của huyện Diên Khánh và phủ Điện Bàn để thành lập huyện mới Đại Lộc và được
chia thành 5 tổng, 109 làng. Tên Đại Lộc có nghĩa là “lộc lớn”. Phải chăng khi
triều Nguyễn đặt tên cho vùng đất này là để ghi ơn con người, đất đai nơi đây
đã từng cưu mang, bảo vệ vị chúa cuối cùng của Đàng Trong những tháng ngày
“ngàn cân treo sợi tóc” trước khi đại nghiệp thành công, sáng lập ra triều đại
nhà Nguyễn?
CÂU CHUYỆN TỪ NHỮNG
TÊN ĐẤT…
Nhà tôi có một đám
ruộng xa tận sát chân núi phía Bắc từ nhánh rẻ Trường Sơn trải xuống đồng bằng,
cánh đồng ấy có tên là Cửa Trại. Thuở nhỏ tôi thường dắt trâu theo cha ra đồng.
Khi cha tất bật cày ruộng, bừa cỏ thì tôi loanh quanh trên mấy bờ ruộng bắt cá,
bắt cua hoặc lên đồi hái sim. Những lúc ngồi nghỉ trưa trên bãi cỏ ven đồng,
tôi tò mò hỏi cha về cái tên “Cửa Trại” chẳng ăn nhập gì với đặc điểm của cánh
đồng này. Cha tôi chỉ nói rằng từ xa xưa đã có cái tên ấy rồi; có người còn gọi
nó là “Đồng Canh Quan Trại”, còn giải thích vì sao thì chẳng ai biết. Sát nách
đồng Cửa Trại còn có Hóc Tộc, Hóc Lầy, Miếu Ông Lương; rồi Hóc Tướng, Gò Tôn
Vương,…
Sau này lớn lên,
từ những câu chuyện truyền miệng trong dân gian vùng Đại Lãnh, Đại Sơn; và qua
mục thị nhiều di chỉ còn sót lại, tôi mới hiểu ra rằng, mỗi tên đất, tên đồng
ấy đều có một truyền thuyết nói về cội nguồn, xuất xứ của nó và là một câu
chuyện dài khá lý thú.
Bao đời nay, người
dân ở các làng Hà Dục, Tịnh Đông, Đại An, Hà Tân…của xã Đại Lãnh, trong ngôn
ngữ ứng xử thường có câu nói cửa miệng “ Tây Sơn hy hữu” (hy hữu như quân Tây
sơn) mỗi khi gặp một điều gì đó làm người ta kinh ngạc. Theo lời kể lại của các
bậc cao niên nơi đây, rằng ngày xưa, vùng đất này từng là nơi được quân Tây Sơn
do nữ tướng Bùi Thị Xuân chỉ huy đồn trú rất lâu trên mảnh đất này. Ở đây, quân
Tây Sơn đã lấy của cải, ruộng đất của nhà giàu chia cho dân nghèo, được nhân
dân tin yêu, kính trọng. Câu nói “Tây Sơn hy hữu” với hàm ý rằng không ai có
thể làm được một điều đáng quý, đáng kinh ngạc như Tây Sơn, và trải qua bao đời
nay, mãi cho đến bây giờ, hễ gặp một việc gì ngoài sự tưởng tượng, thì họ lại
buộc miệng “ đúng là Tây Sơn hy hữu!”.
Trong kho tàng văn
nghệ dân gian vùng tây Đại Lộc có câu hát ru:
Chiều chiều mượn ngựa ông Đô
Mượn ba chú lính đưa cô về nguồn
Cô về cô chẳng về không
Ngựa ô đi trước ngựa hồng đi sau
Mâm trầu lại có mâm cau
Có con nhỏ nhỏ đi sau quạt hầu…
Câu hát miêu tả
đám rước dâu của một ông quan đô đốc thời Tây Sơn, câu hát có từ lâu ở vùng tây
Đại Lộc. Điều đó chứng tỏ rằng, quân Tây Sơn trong lịch sử đã từng đồn trú,
chinh chiến nơi này là không thể chối cãi.
Người ta kể lại
rằng, vào tháng Giêng năm Ất Mùi (triều Lê Cảnh Hưng thứ 30), Đàng Trong bị
chúa Trịnh chiếm mất Phú Xuân, Định Vương Nguyễn Phúc Thuần cùng con trai
Nguyễn Phúc Ánh phải chạy và Quảng Nam bằng đường bộ thì gặp cánh quân của Tây
Sơn do nữ đô đốc Bùi Thị Xuân chỉ huy đóng tại Đồng Canh Quan Trại truy sát.
Tàn quân chúa Nguyễn men theo triền núi phía Bắc của một con sông nhỏ (sau này
là sông Con) lên đến núi Dương Thành có Gò Tôn Vương, Hóc Tướng. Tại nơi đây,
ông phong cho con trai Nguyễn Phúc Ánh làm Đông cung Thế tử. Tên Gò Tôn vương,
Hóc Tướng phù hợp với truyền thuyết này. Người dân vùng Trúc Hà đã lưu truyền
từ đời này sang đời khác rằng, cứ đêm về thường nghe tiếng ngựa hí, quân reo,
người già thường không cho trẻ nhỏ đi chăn trâu hoặc nô đùa nơi đây vì rất linh
thiêng.
Khi quân chúa
Nguyễn bị truy đuổi gắt gao, từ Hóc Tướng vượt qua sông thì gặp một cánh đồng
(thuộc làng Trúc Hà bây giờ), có năm người phụ nữ đang cấy lúa trên ruộng. Quân
Chúa nguyễn hỏi đường thì được họ chỉ đi theo hướng tây để thoát nạn. Đoàn quân
Tây Sơn từ Đồng Canh Quan Trại vượt qua Hóc Lầy, nơi có những vũng sình sâu đến
lút đầu người. Do không để ý, một vị đô đốc họ Lương bị sa ngựa và tuẫn mạng
tại đây (sau này người dân lập miếu thờ, gọi là Miếu Ông Lương, đến nay còn di
tích). Nói về quân Tây Sơn khi chạy tới hỏi đường những người đàn bà thì họ lại
chỉ sang hướng khác. Truy tìm quân chúa Nguyễn không có kết quả, biết đã bị
đánh lừa, quân Tây Sơn quay lại giết chết năm người đàn bà trước khi tiếp tục
cuộc truy đuổi. Sau này khi thống nhất giang sơn, nhớ ơn kẻ đã cứu mạng mình,
vua Gia Long sắc phong cho năm bà là Ngũ hành Tiên nương; cho xây một ngôi miếu
tại nơi năm người bị giết có kiểu kiến trúc như Ngọ Môn quan ở kinh đô Huế và
cho dân làng hàng năm vào ngày 14 tháng Giêng âm lịch tổ chức cúng tế long
trọng.
ĐẾN CON ĐƯỜNG MÒN
CÓ TÊN “ĐƯỜNG GIA LONG”…
Làng Hội Khách đến
Đồng Chàm, Mũi Lợn, Đầu Gò… thuộc xã Đại Sơn huyện Đại lộc nằm dựa lưng vào một
nhánh núi đổ dài qua ngã Đại Lãnh nối với những địa danh trong câu chuyện Chúa
Nguyễn lánh nạn. Trên đỉnh của ngọn núi còn có một con đường mòn mà chẳng biết
tự khi nào, dân địa phương gọi là “đường Gia Long”. Dọc theo ngã sông Vu gia
lên thượng nguồn ta gặp các tên gọi: Bãi Trạnh, bãi Quả, Cửa Vườn, thác Ông,
thác Bà… và câu chuyện kể về cuộc lánh nạn của chúa Nguyễn lại tiếp tục…
Người ta kể rằng:
Sau khi được năm người đàn bà chỉ đường, đám tàn quân của chúa Nguyễn men dọc
theo cánh đồng khi ấy còn hoang vu, nhiều sình lầy, lau lách để chạy về phía
tây, họ gặp một dãy núi chắn ngang. Thời gian quá nguy cấp, chúa Nguyễn lệnh
cho thuộc hạ vượt núi lên đỉnh. Nhờ ngọn núi không cao lắm nên chỉ một thời gian
ngắn, đám tàn quân của ông đã lên tới đỉnh đồi và theo đường dốc đổ qua ngõ
sông Cái (đầu nguồn Vu Gia), vừa đến một bãi cát ven sông thật rộng thì trời
tối mịt nên buộc phải dừng lại dựng trại trú qua đêm. Đêm ấy, trong giấc chiêm
bao, Nguyễn Phúc Ánh nằm mơ thấy vị thần núi hiện ra và bảo rằng: “Ngươi có
chân mệnh thiên tử. Cứ theo đường núi về phía tây sẽ thoát nạn. Thần linh sẽ
trợ giúp ngươi!”. Sáng ra, lúc quân Tây Sơn gióng trống chiêng thúc đuổi phía
sau, Chúa Nguyễn cho thuộc hạ tìm thuyền qua sông thì chẳng có. Chặt nứa kết bè
thì không kịp. Đứng bên mép sông, Chúa Nguyễn ngửa mặt lên trời than rằng: “
Chẳng lẽ mệnh đế vương của dòng họ ta đã đến lúc cáo chung rổi sao?”. Đang lúc
sắp rơi vào tay kẻ thù, thì trời nổi cơn gió lớn, hàng chục con trạnh (một loại
sinh vật họ rùa sống ở các dòng sông đầu nguồn) lớn như những chiếc nong phơi
lúa nổi lên làm thuyền đưa mọi người qua sông vừa lúc quân Tây Sơn nạp tới. Qua
đến bên này sông, Chúa Nguyễn cho quân tiếp tục tiến về phía tây như điềm báo
mộng. Sau này, gọn lại là Bãi Quả. Còn bên kia sông là Bãi Trạnh, đến nay địa
danh vẫn còn. Tiếp tục cuộc hành trình của Chúa Nguyễn. Khi vượt đường rừng áng
chừng nửa ngày đường thì bị lạc vào một vùng núi rậm rạp toàn những cây cao,
thân có trái chín từng chùm màu vàng óng, hương thơm lan tỏa khắp rừng. Chúa
Nguyễn lệnh cho thuộc hạ hái xuống, ông lấy móng tay bấm thử thấy vỏ mềm, cơm
trắng; nếm thử mùi vị ngọt lịm. Biết là trái quý, nên cho quân hái ăn qua cơn
đói dài ngày, lấy lại sức lực trước khi tiếp tục cuộc hành trình may rủi. Sau
này, khi lên ngôi vua lấy niên hiệu Gia Long, Nguyễn Phúc Ánh ban cho loại trái
cây rừng đã từng cứu ông và quân sĩ là Nam Trân (trái quý ở phương Nam), được
khắc hình vào một trong “Cửu Đỉnh” ở kinh đô Huế. Cũng từ truyền thuyết này,
người ta còn cho rằng trên trái lòn bon còn in dấu móng tay của Nguyễn Phúc Ánh
bấm vào lúc trái còn trên thân cây.
Trở lại chuyện
“tẩu quốc” của Chúa Nguyễn. Sau khi được thỏa cơn đói từ vườn trái lòn bon,
Định vương Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Ánh hướng về phía tây để thoát khỏi
sự truy đuổi của kẻ thù. Đến một ngã ba sông, họ rẻ theo nhánh bên phải có tên
là sông Bung và gặp nhiều thác lớn. Tên “thác Ông”, “thác Bà” mà người dân địa
phương thường gọi cho đến bây giờ vẫn còn lưu truyền rằng, gọi thác Bà vì nơi
đây có một bà phi của Chúa Nguyễn bị chết đuối khi vượt thác; còn thác Ông là
nơi Chúa Nguyễn trượt chân, được thuộc hạ cứu, nhưng cây gậy trúc của ông còn
cắm bên bờ thác, sau này mọc lên thành một bụi trúc rất to đến nay vẫn còn.
VÀ CÂU CHUYỆN CỦA
HÔM NAY…
Truyền thuyết,
giai thoại có thể có thật, có thể là sự hư cấu trong dân gian để làm cho đời
sống tinh thần của con người thêm phong phú. Tuy vậy, theo thiển ý của người
viết, câu chuyện trên đây cùng với những địa danh, di chỉ có thực trên vùng đất
phía tây Đại lộc xoay quanh những sự kiện cốt lỏi có thật trong lịch sử cũng là
điều đáng quan tâm lắm chứ! Phải không các bạn?
Quê
nhà tháng 12/2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét