Nguyễn Hữu Vĩnh
Bữa về tôi gặp lại tôi
Trắng màu ký ức lở bồi … với sông.
(Bài
lục bát gửi sông)
Đọc "Lời ru lá
cỏ", đầu tiên tôi chạm phải một sự đồng nhất giữa cái tôi của nhà thơ với dòng
sông. Ấn tượng ấy trở thành sứ giả dẫn dắt tôi vào thế giới thơ Nguyễn Hải
Triều, mở ra một cõi lòng, một cõi thơ mênh mông sông nước.
Nhặt
lá ghi thơ thả xuôi dòng sông mẹ
Gửi
làng xưa mây trắng vắt ngang trời
(Nghe phôi pha)
Với Nguyễn Hải
Triều, sông đã kiến tạo nên một sắc điệu riêng cho thơ anh vừa dịu dàng vừa sâu
lắng. Sông là thi ảnh, thi tứ, là cảm xúc, suy tư, là nhịp điệu, thể phách. Từ Rơm
rạ mùa đến Lời ru lá cỏ, vui cũng như buồn, say cũng như tỉnh anh đều
về tắm gội với sông: “Bữa về tao ngộ dòng sông/ Lở bồi nên vẫn rộng lòng nắng
mưa” (Góc quê – Rơm rạ mùa), “Cạn/ Rót nhẹ tay thôi em/ Quê buông con gió
thổi đầy/ Sông lơ mơ cánh buồm/ Lơ thơ bóng chiều/ ngất ngưỡng/ anh say” (Say)…
Đó là những con sông thực và hư, có tên và phiếm chỉ, cụ thể và trừu tượng, như: sông Vu Gia, sông Bung, sông Cái, sông Yên, sông Vàng, sông Tiên, sông ký ức, sông tuổi thơ, sông tôi… Và, những con sông ấy trong thơ anh thường trôi chảy êm đềm trên nền nhịp lục bát nhẹ nhàng mà sâu lắng; chảy qua miền âu lo thổn thức, chảy qua cõi tin tưởng và hoài nghi, chảy qua triền lở bồi được mất, chảy trong lòng đa sự đa đoan…
Nguyễn Hải Triều
đến với sông như một sự ký thác nỗi lòng với người tri kỷ. Thơ anh không phải
chỉ cho mình mà còn để cho người. Khát vọng đồng cảm ấy luôn thường trực trong
anh để rồi bật lên thành tiếng: Bài lục bát gửi sông, Gửi một người, Câu
gửi một dòng sông, …Đó là những con sông thực và hư, có tên và phiếm chỉ, cụ thể và trừu tượng, như: sông Vu Gia, sông Bung, sông Cái, sông Yên, sông Vàng, sông Tiên, sông ký ức, sông tuổi thơ, sông tôi… Và, những con sông ấy trong thơ anh thường trôi chảy êm đềm trên nền nhịp lục bát nhẹ nhàng mà sâu lắng; chảy qua miền âu lo thổn thức, chảy qua cõi tin tưởng và hoài nghi, chảy qua triền lở bồi được mất, chảy trong lòng đa sự đa đoan…
“Gửi” là một nhu
cầu, như cầu giải bày của cái tôi cô đơn mong cùng ai thức ngủ.
Sông trong thơ anh
hóa thân thành nhiều gương mặt của cảm xúc và suy tư. Cái thực thể tự nhiên
sống động ấy lại mang bao nhiêu rung cảm của con người. Trước hết, với anh,
sông là một miền quê, một tình quê. Tình anh với quê hương luôn gửi gắm
vào sông. Đôi khi lạc bước quê nhà, sông là nhịp cầu về nơi cố quận: “Khúc
dạ hành đời sông di trú/ Giấc mơ xanh quê ấm một giọng cười”(Dấu con đường). Và
có lúc về với sông thì ngược dòng tìm lại tuổi thơ: “Ngược sông về gặp chiêm
bao/ Nợ nần chi nữa giấu vào đa mang” (Chuyện xưa), “Bữa tôi về trò chuyện
với sông/ Gặp ngọn gió thuở trăng mười bảy tuổi”(Vu Gia – Rơm rạ mùa),… Sông
trở thành cõi nhớ ăm ắp, mơn mởm kỷ niệm tuổi thơ. Cõi nhớ là đẹp nhưng mãi là
quá khứ: “Tôi ngóng đợi khát vọng của cơn sóng xô bờ /Nhưng chỉ còn lại sự nuối
tiếc mỏi mòn. Dòng sông kỷ niệm đã trôi xuôi”(Hương). Câu thơ chẳng phải là tâm
trạng của Heraclit hơn hai ngàn năm trước đó sao?
Có thể nói, phần
lớn những vần thơ viết sông của anh mang những cảm thức về tình yêu và cuộc
đời. Mênh mang như sóng nước, đẹp nhưng buồn, trĩu nặng trong thơ anh là những
dòng sông mang tình yêu không bến đỗ. Đó là “Đêm con gái bến sông run bàn tay
ấm/ có mối tình đầu tha hương” (Lời ru lá cỏ), là “Hôm em về phía …người ơi/
cái ngày con sáo hát lời sang sông” (Chuyện xưa), là “Ngày sông trôi mất câu
thề/ Tròng trành gánh nhớ quảy về phù sa” (Lục bát nhớ), “ Mỏi mòn
thời gian dâu bể vô thường/ Bữa trăng ăn nằm cùng sông câu thề góa bụa” (Trăng),
“Từ ngày sông chảy đôi dòng/ Em xa xôi quá đợi mong bến nào” (Lục bát
đợi),…
Những câu chuyện
tình yêu cũng là câu chuyện cuộc đời miên man bất tận không hồi kết. Tình yêu
cho anh mãn cảm nghiệm sinh trong cuộc đời bon chen được mất. Đọc Nguyễn Hải
Triều, ta luôn bị trói vào mặc cảm “lở bồi” của sông. Ở đó, con sông mang căn
phận đời người chảy ám muội trăng vàng, đìu hiu lau lách: “Bữa về tôi gặp lại
tôi/ Trắng màu ký ức lở bồi … với sông”(Bài lục bát gửi sông), “ Dù sao
sông đã lở bồi/ Câu thơ tôi viết/ Bẻ đôi/ Tặng người” (Gửi một người), “Nụ
cười xuân thì trổ dòng trăng mật/ Dòng sông lở bồi trở khúc hoam ca” (Hương
mùa) … Và có lúc, con sông dịu dàng và đau đớn ấy đổi lời cuồng nộ trước thói
đời ám chướng hơn thua: “Anh lang thang theo dòng lũ/ Nghe chúng cãi nhau bằng
những lời đục ngầu”(Thi khúc bão).
Cảm hứng về cuộc
đời với bao trải nghiệm bồng bềnh tóc trắng đã đẩy cảm xúc suy tư trong thơ anh
đến bờ triết lý. Đó là cơ may anh tìm thấy sự cân bằng trước chòng chành quang
gánh áo cơm. Con sông lặng im dạy người biết im lặng. Cơ hồ những lở bồi là
nghiệp dĩ của đời sông, đời người. An nhiên của sông trước vô thường sóng gió,
trùng trùng dâu bể là một công án hạnh ngộ lấp lánh nụ cười vô ngại
Lưng chừng nắng với mênh mông
Lặng im sông chảy mà không nói gì.
(Bài lục bát gửi sông)
Sóng vô thường xô nghiêng
Ngày sông trở gió
Đứng giữa thinh không
Chấp tiếng sự đời
(Nghe phôi pha)
Bản chất con người
là cô đơn nên con người cần chia sẽ. “Ai thức cùng ta? Ai ngủ cùng ta?”(Tiếng
chuông – Ngọc Phước). Người làm thơ tức là đi tìm tri âm, tức là với tay ra vẫy
ngoài vô tận, trong cõi xa lòng có những ai, tức là lắng nghe tiếng vỗ từ một
bàn tay hay âm vọng từ cánh hoa hồng thả xuống bờ vực thẳm. Và cuối cùng, anh
đối diện với câu hỏi mang tính bản thể thả giữa thinh không vô âm hồi vọng.
Ta đỏ mắt phù sa chờ đợi
Tự khi nào để em hiểu đời sông
(Chùm thơ bốn câu 5)
Bao nhiêu lần bãi
bể nương dâu, sông vẫn sống trọn vẹn cuộc đời của nó. Trong cái tịch lặng của
đêm sông vẫn một mực phù sa và vỗ sóng. Trong cái tĩnh lặng cõi lòng anh vẫn
một mực tận tụy và yêu thương. Sông hay phiên bản của đời anh đã sống đẹp trọn
cuộc đời mà hóa công ban tặng. Đó là cái bản thể nguyên khôi, nguyên vẹn đáng
trân trọng trước biển cạn đá mòn.
Thưa em từ thuở nguyên khôi
Tôi xưa tôi lại là tôi bây giờ!
(Gửi một người)
NHV, Quê nhà, tháng 2/ 2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét