Tạp bút của Nguyễn Hải Triều
Thủy lợi là điều kiện quan trọng để làm nên mùa vàng cho nhà nông. Cha ông ngày xưa thường nhớ nằm lòng câu “nước, phân, cần, giống”. Trong thời đại điện khí hóa nông thôn, việc tạo nguồn nước tưới cho ruộng đồng không còn là chuyện khó khăn trong sản xuất thời vụ hằng năm. Người ta chỉ cần một chiếc mô-tơ cố định, đường dẫn điện và khơi kênh mương là có thể đưa nước lên đồng tưới tiêu hàng trăm mẫu ruộng để vượt qua những cơn nắng hạn kéo dài, cho lúa trên đồng luôn xanh tốt.
Chẳng bù lại nhiều chục năm trước đây, việc lấy nước phục vụ cấy cày là vấn đề công khó nhà nông; là nỗi lo được mất mùa màng của người dân quê tôi hai sương một nắng. Tôi nhớ làm sao những bờ xe nước cũ càng, thân thiết. Không phải vì nó giúp người dân quê tôi đem nước lên đồng, cho cơm no áo ấm; mà vì bóng dáng của nó luôn ẩn chứa nguồn yêu thương mang đậm hồn quê kiểng, quê nhà…
Làng tôi như bao làng trung du khác
nằm bên bờ sông Vu Gia hiền dịu. Con sông mang vác những nhọc nhằn quê tôi từ
mấy trăm năm trước, cần mẫn dang tay về biển cả. Để rồi mỗi ai từng dứt áo ra
đi đều có căn nguyên mà yêu, mà nhớ; mà hoài niệm về những tháng ngày ả êm nơi
một sông quê xứ, một góc quê nhà.
Làng trải dài dọc sông. Sông tới
làng. Tới đồng ruộng và đồi núi. Là vùng giáp miệt thượng nguồn trung du nên
sông quê tôi không mênh mang như xứ người mà đôi bờ thường rất hẹp, có độ dốc
lớn, chảy xiết. Mùa nắng dòng nước trong veo như dãi lụa xanh lăn tăn con sóng,
vắt qua những triền đồi, đồng bãi, làng xóm nên thơ; mùa mưa thì sông đỏ mắt
đục ngầu, chở phù sa bồi đắp để xanh um dâu lúa sắn ngô. Và có lẽ cũng từ nhiều
đặc điểm tự nhiên ấy nên người dân quê tôi cứ mùa lại mùa thường làm rất nhiều
bờ xe nước, phương tiện thủy lợi cơ bản để cho những mùa vàng đầy bông trĩu
hạt, gánh về từng nhà ấm no cơm áo.
Lần đầu tiên trong đời mẹ dẫn tôi ra
bến sông thì bờ xe nước đã đứng đó rồi. Tuổi thơ tôi và bao bè bạn trang lứa
từng sống êm đềm với những kỷ niệm làng mạc, ngôi trường cũ, cánh đồng, những
đồi sim tím ngần nỗi nhớ, đêm trăng sáng hát đồng dao dung dăng dung dẻ, bắt
cây dừa chừa cây ngọn; chơi u mọi, cút kiếm, bịt mắt bắt dê…và cả những ngày
trốn học cùng lũ bạn đi tát cá ao đìa, bùn đất mốc meo, ra bến sông hụp lặn,
cút bắt thỏa thuê, chơi trò đá bò, trồng chuối bẻ búp, rồi leo trèo đánh
đu trên vòng quay của bờ xe nước làng tôi, để khi về nhà chấp nhận những trận
đòn tím mông nhớ đời.
Tôi nhớ, ngày ấy làng tôi có đến hai
bờ xe nước. Bờ xe nước Bến Miếu bên ngã sông Con đổ nước vào ruộng Đồng An; bờ
xe nước bến ông Khuê bên sông Cái thì cho nước chảy theo con mương thủy lợi dọc
từ cuối đến đầu làng rồi đổ ra Lung Ngõ, Ruộng Su…chưa kể của Hoằng
Phước, Dục Tây, Tịnh Đông…những bờ xe nước trông xa vừa như những cổ máy khổng
lồ nhẫn nại ngày đêm tưới nước lên đồng; vừa tạo nên nét thơ mộng, êm đềm, tạc
vào không gian dáng vóc quê kiểng để làm nơi thương nhớ đi về của mỗi đời
người.
Bờ xe nước làng tôi là bờ xe nước
“kỳ vĩ” hơn cả. Năm nào thời tiết nắng nóng, hạn hán kéo dài thì người ta làm
đến mười hai bánh xe quay. Đêm đêm, giữa không gian vắng lặng, tĩnh mịch, khi
mọi người đã chìm vào giấc ngủ say; từ đầu làng đến cuối làng chỉ còn lại âm
thanh ầm ì, lắc cắc, rào rào,… gõ đều vào không gian nghe xao động đến xốn xang
cả một vùng quê. Tôi nghe người lớn kể, rằng công việc thiết kế, tìm kiếm vật
liệu lâm sản để dựng bờ xe nước của làng là sự kiện vô cùng hệ trọng của năm,
đòi hỏi sự đóng góp công sức của cả cộng đồng. Từ thời ông nội, rồi đến cha tôi
đều là những người thợ lành nghề trong việc thiết kế, thi công tạo dựng nên bờ
xe nước. Mỗi năm, vào những ngày cuối tháng Mười, trời đất bắt đầu hanh khô sau
bao trận lụt dữ dằn trôi nhà trôi cửa. Làng tôi cử từng tốp trai tráng khỏe
mạnh theo các vị trung niên dày dạn kinh nghiệm, mo cơm, ống nước lên rừng, tìm
vật liệu như cây gỗ, róng, mây, lồ ô…Việc tìm nguyên liệu diễn ra khoảng mươi
ngày, nửa tháng, sau đó từ trên đầu nguồn, họ kết thành từng bè nổi thả xuôi
theo sông về bến sông của làng. Nghỉ ngơi dăm bảy bữa cho lại sức, cả làng bắt
tay vào thiết kế, đo đạc. dựng xe. Bến sông, trên bờ những ngày ấy náo nhiệt
đến lạ. Nào thợ mộc, thợ tre, công lao động phổ thông…mỗi người một việc. Nào
đục lỗ trụ cho bánh xe, tiện trục. Những cây gỗ hạng danh mộc như chò, trao,
lim…được chọn làm trụ. Mỗi bánh có hai trụ chính đường kính từ nửa thước tây,
dài khoảng mươi lăm thước; Trục bánh bằng gỗ lim chắc khừ, không ăn mòm khi
bánh xe quay, được đẽo gọt kỹ càng. Róng nan bánh xe là những cây săng
dài to bằng cổ chân người lớn, được khớp vào trục như nan quạt; những sợi mây
nước, mây trường được đánh tréo để liên kết vững chắc giữ cho bánh xe khi quay
đều. Rồi việc dựng máng xối cao đến mươi lăm thước, v.v..và v.v…. Mọi việc được
tiến hành nhịp nhàng như một công trường. Nơi này tiếng va đập của vồ đóng trụ
thình thịch, nơi kia tiếng cưa cắt xẻ gỗ âm âm, tiếng chặt tre, chẻ nứa
chanh chách; tiếng hô “hai…ba” làm hiệu lệnh để trai làng kéo tời nâng
trục cái, gác giàn… xao động cả một góc sông quê. Chưa hết, trong không gian
nhộn nhịp, vui vẻ ấy thỉnh thoảng lại vang lên một vài câu hát hò khoan
của ông Bảy Khái, ông Biện Thành…lời lẽ thâm thúy, dí dõm ai nghe cũng
đến say lòng, làm tan đi sự mệt nhọc. Lũ trẻ chúng tôi ngày ấy, được phân công
xách ấm nước chè chạy lon ton theo mẹ, bà mang các thức như mì quảng, bún, chè,
chuối chín… đến cho mọi người ăn uống nước nửa buổi; rồi chạy loanh quanh dọc
biền dâu rủ nhau bắt dế, đá cầu mà trong lòng thì cứ ước đến khi người lớn dựng
xong bờ xe nước, có nơi mà vui chơi tắm nhảy đánh đu cho “thỏa chí tang bồng”.
Bờ xe nước dựng xong là làng vui như
ngày hội. Một lễ cúng tươm tất có pháo nổ đì đùng. Cả làng ra đứng dọc mương
thủy lợi để chờ xem dòng nước đầu tiên chảy ra đồng trong niềm vui khôn tả. Ai
cũng vui vì biết rằng mùa lúa tới trên đồng làng quê mình chắc sẽ đầy bông.
Rất lâu rồi không về thăm quê.
Tôi và lũ bạn trang lứa lớn lên như mây ngàn phương, như sông trăm ngã. Khi có
dịp quay về cố xứ thì đã “vật đổi sao dời”. Người làm ruộng bây giờ đi xe máy
ra đồng. Cấy cày không còn vất vả hai sương một nắng. Phương tiện tưới tiêu cho
lúa là những cổ máy bơm, những mô-tơ điện hiện đại. Cuộc sống của quê đang đi
lên no ấm đẹp giàu. Có lẽ từ lý do ấy, nên rất lâu rồi, những bờ xe nước làng
tôi chỉ còn trong hoài niệm.
N.H.T. Tháng 3.2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét